Văn hóa Tràng An

Văn hóa tràng an cổ

Văn hóa Tràng An kéo dài từ thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới (23.000–1000 tCN), trên vùng đất xen núi đá vôi thuộc phía nam châu thổ Sông Hồng.

Theo PGS-TS Nguyễn Khắc Sử, các hiện vật tìm thấy khi khai quật hơn 30 di tích khảo cổ trong khu vực Tràng An minh chứng cho lịch sử chiếm cư và quá trình sử dụng đất, sử dụng biển của con người trước sự biến động khắc nghiệt của môi trường tự nhiên từ 30 nghìn năm cho đến nay với 3 giai đoạn, gắn liền với các thời điểm trước, trong và sau biển tiến. (baoninhbinh.org.vn)

Giai đoạn trước biển tiến (từ 28.000 tCN đến 7.000 tCN): Các cộng đồng cư dân đều cư trú trong các hang động hoặc mái đá, săn bắt các loài hươu, nai, lợn, mèo, khỉ, báo; thu lượm các loài ốc núi trong các thung lũng đá vôi; đánh bắt cua, cá và cá loài thủy sản trong các khu lầy trũng. Cư dân giai đoạn này có liên hệ mật thiết với nhau, tạo nên đặc thù chung về văn hóa hậu kỳ Đá cũ. Đó là việc chế tác và sử dụng các công cụ bằng đá vôi để chặt, cắt, nạo với các vết ghè đẽo thô sơ, chưa biết đến kỹ thuật mài và làm gốm.

Dẫu sống trong các thung lũng karst, nhưng cư dân gia đoàn này vẫn vươn ra trao đổi với các nhóm cư dân bên ngoài. Họ đem các sản vật đặc hữu của Tràng An để đổi lấy các nguyên liệu đá tốt để làm các công cụ, hoặc trao đổi lấy sản vật biển làm đồ trang sức. Người Tràng An thích sử dụng vỏ ốc biển có thân nhỏ, vỏ dày, màu trắng sáng, đem mài thủng lỗ chôn tạo lỗ xâu dây làm đồ trang sức đeo cổ. Sở thích này sẽ thay đổi sau khi Tràng An bị ngập trong nước biển.

Giai đoạn biển tiến (từ 7000–2000 tCN): Khi Tràng An trở thành biển đảo, con người vẫn cư trú trong hang. Ngoài săn bắn các động vật trên cạn, con người lúc này tập trung khai thác nguồn lợi biển.

Các dấu tích đống rác bếp thải ra sau bữa ăn được chất thành các lớp khá dày cho thấy, các loài nhuyễn thể họ khai thác phổ biến là ốc undata, ốc mỏ két, ốc viền vàng, ốc mít, sò huyết, vọp, ngó, ngao đầu, hầu cửa sông, hàu hà… Như vậy, môi trường biển Tràng An lúc này thuộc đới biển nông, ven bờ.

Để thích ứng với môi trường biển đảo, người cổ Tràng An áng tạo ra những chiếc rìu mài lưỡi, rồi mài toàn thân, nhưng con dao và công cụ đào xới từ vỏ các con hàu lớn, rồi đồ đựng từ vỏ vọp biển và đồ trang sức bằng vỏ ốc ngao đầu, ốc tiền có dáng miệng rất đẹp. Những chiếc rìu mài nhẵn ở đây dùng để chặt cây, phá rừng trồng trọt, chế tạo bè mảng, giao thông biển.

Để khai thác nguồn lợi biển, người xưa đã dùng “chì lưới” bằng đá, bằng đất nung để đánh cá, biết se sợi làm dây câu, làm lưới vó. Thành tựu nổi bật của người Tràng An giai đoạn này là sáng tạo ra các loại đồ gốm đất nung, thành dày, văn đập thừng không se, niên đại trên 9 nghìn năm cách ngày nay. Đây cũng là đồ gốm sớm nhất hiện biết ở Việt Nam và Đông Nam Á.

Sống trong môi trường biển, cư dân Tràng An để lại văn hóa ứng xử biển độc đáo. Vào lúc này, mưa nhiều, các hang ẩm ướt, con người đóng cọc tre, gỗ làm sàn nghỉ ngơi; đốt lửa sưởi ấm, xua đuổi côn trùng, thú dữ. Vào giai đoạn này người chết được chôn tại hang, với táng thức ăn chặt nhỏ xương và đặt chúng nhiều nơi trong hang cũng có trường hợp chôn nằm co, bó gối.

Giai đoạn sau biển tiến (từ 2000 tCN đến 1000 tCN): Tràng An lại trở về lục địa. Sau 5 nghìn năm, nước biển rút xuống, Tràng An lộ dần hình hài như ngày nay, cư dân cổ cũng bắt đầu chuyển dần ra vùng rìa ngoài Tràng An để mưu sinh theo xu hướng nông nghiệp cố định.

Cư dân thời  phát triển đến đỉnh cao kỹ thuật chế tác rìu đá, bắt đầu chế tạo và sử dụng đồ gốm kiểu Đông Sơn, săn bắt các động vật nhỏ trong núi, thu lượm các loài nhuyễn thể nước lợ, hái lượm các loài rau củ ven núi, dần tiếp cận đồ đồng như rìu đồng, giáo đồng, phát triển sản xuất và từng bước tiến vào xã hội văn minh.

Bước vào thời kỳ lịch sử, cư dân cổ Tràng An tiếp nối truyền thống cha anh, xây dựng nơi đây trở thành vùng kinh tế phát triển, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Định Bộ Lĩnh, tiến tới thống nhất 12 xứ quân, thành lập nước Đại Cồ Việt  –  quốc gia độc lập đầu tiên sau nghìn năm Bắc thuộc.

PGS-TS Nguyễn Khắc Sử cho hay, căn cứ vào kết quả khai quật, nghiên cứu khảo cổ học hang động Tràng An xác nhận rằng, các di tích tiền sử mang những đặc thù, xác lập sự hiện diện của một nền văn hóa khảo cổ – Văn hóa Tràng An. Nó rất khác so với văn hóa khảo cổ Hòa Bình, Cái Bèo, Đa Bút, Quỳnh Văn, Hạ Long, Hoa Lộc cả về không gian cư trú, về chất liệu công cụ đá, kỹ thuật gia công công cụ, có sự giao thoa, tiếp xúc và diễn tiến văn hóa để bước từ nguyên thủy sang văn minh ở một địa bàn hết sức đặc trưng của thung lũng karst lầy trũng. Truyền thống khai thác nhuyễn thể ở hang động Tràng An còn được lưu truyền cho tới những người Việt sau này.

Qua phân tích và đối sánh giữa nền Văn hóa Tràng An với các văn hóa khảo cổ học đã biết, thì ở Tràng An: Về vị trí địa lý là thung lũng đá vôi đầm lầy chứ không phải đá vôi vùng núi khác; Công cụ lao động không sử dụng đá cuội mà sử dụng bằng đá vôi; Phổ biến sử dụng đồ gốm hoa văn dấu thừng thô chứ không phải là dấu thừng mịn; Khai thác các loài vỏ nhuyễn thể (như vỏ ốc, trai, hàu) là nước ngọt và biển (đồng thời); Con người cư trú hầu như chỉ ở trong hang động, không ở ngoài trời và các hang động đó được sử dụng đến ngày nay (ban đầu là nơi cư trú, sinh sống sau này được sử dụng làm chùa, nơi sinh hoạt văn hóa của cư dân địa phương); Niên đại kéo dài từ 25.000 năm đến 3.000 năm cách ngày nay.

Trong điều kiện tự nhiên đặc biệt, hầu như chỉ có đá vôi là chất liệu đá duy nhất, người Tràng An biết sử dụng nó làm công cụ lao động ít nhất cho đến cách ngày nay khoảng năm 1000 tCN, trong quá trình đó đã nhận biết được rằng đá vôi đô-lô-mít thuộc loại chất liệu tốt nhất có thể có. Đồng thời với giai đoạn biển tiến lớn nhất cuối cùng (khoảng năm 5000–2000 tCN), người tiền sử Tràng An đã biết tới cách làm đồ gốm.

Những chứng cứ sớm nhất được cho là tương đương với gốm Đa Bút (6.000 năm trước), nhưng thực tế đã được làm ra ở đây sớm hơn nhiều (khoảng năm 7000 tCN) và tiến hóa liên tục qua thời đại Kim khí đến tận sau này. Việc sử dụng đồ gốm từ sớm và liên tục ở Tràng An chứng tỏ rằng một trung tâm gốm sứ rất khác biệt so với nhiều trung tâm gốm sứ khác ở Việt Nam đã từng tồn tại ở đây.

TS Masanari Nishimura (Nhật Bản) qua nghiên cứu khảo cổ học tiền sử Quần thể danh thắng Tràng An xác định: Khoảng năm 4000–3000 tCN, có một trận động đất lớn ở Tràng An và người Việt cổ ở Tràng An đã trải qua nhiều sự biến đổi của thiên nhiên để thích ứng và phát triển cho đến ngày nay, tạo nên một giá trị về một nền Văn hóa Tràng An.

Nguồn sưu tầm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *