Văn hóa Soi Nhụ là một nền văn hóa tiền sử có niên đại 16.000–5000 tCN 18.000 đến 7.000 năm trước, và được coi là một trong những nền văn hóa cổ nhất ở Việt Nam và Đông Nam Á. Văn hóa này được đặt tên theo di chỉ khảo cổ Soi Nhụ ở Vịnh Bái Tử Long, nơi nó được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện vào năm 1964 và khai quật vào năm 1967.
Văn hóa này cho thấy người tiền sử ở khu vực này có một lịch sử dài thích nghi với môi trường ven biển đầy thách thức và khai thác nguồn lợi biển phong phú cho sinh kế của họ. Họ cũng có một mức độ sáng tạo và đa dạng văn hóa cao về việc làm gốm, sản xuất công cụ đá, chế tác trang sức và chiến lược sinh tồn.
Các đặc trưng của Văn hóa Soi Nhụ so với các văn hóa khác (vdstravel.vn):
1/ Văn hóa Soi Nhụ chủ yếu phân bố trong khu vực các đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long, bao gồm cả đảo Cát Bà, Bái Tử Long. Các di chỉ Văn hóa Soi Nhụ còn phân bố tại các hang động đá vôi ven bờ các vịnh biển ấy thuộc Huyện Cẩm Phả, Tp .Hạ Long, Huyện Hoành Bồ, Thị trấn Uông Bí, Huyện Kinh Môn (Hải Dương), Huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng).
2/ Đây là nền văn hóa hang động, cửa sông, thềm biển, mà tầng văn hóa cấu tạo chủ yếu vỏ ốc núi, ốc suối cùng một số loài nhuyễn thể nước ngọt khác. Bên cạnh những thành phần này còn có số lượng đáng kể các di tích xương cốt động vật có vú. Tuy hiếm, nhưng xuất hiện các loài động vật thân mềm biển trong tích tụ văn hóa.
3/ Khác Văn hóa Hòa Bình và Văn hóa Bắc Sơn, trong tích tụ tầng Văn hóa Soi Nhụ rất hiếm các loại cuội nguyên liệu, công cụ đá, mảnh tước và gốm.
4/ Một số công cụ không có hình dáng ổn định. Kỹ thuật chế tác đơn giản, chủ yếu bằng thủ pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ và rất ít tu sửa hệ thống, quy chỉnh. Có vẻ như nhiều công cụ chặt đập thô đều chế tác từ đá vôi nên rất khó phân biệt với những mẩu đá vôi vỡ tự nhiên hoặc do những người đời sau làm vỡ để lại.
5/ So với các cư dân Văn hóa Hòa Bình và Văn hóa Bắc Sơn cùng thời, thì cư dân Soi Nhụ có lẽ gần gũi biển nhiều hơn, trực tiếp hơn. Một số bằng chứng khai thác biển phát hiện tại các hang Soi Nhụ, Tiên Ông, Bồ Quốc… nhưng niên đại của chúng cần nghiên cứu thêm.
6/ Đối với hai nền Văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn cùng thời, có lẽ Văn hóa Soi Nhụ có những mối liên quan, ảnh hưởng qua lại với Văn hóa Bắc Sơn nhiều hơn, thường xuyên hơn và thuận lợi hơn. Điều đó phần nào thể hiện qua các rìu mài lưỡi dạng Bắc Sơn phát hiện tại hang Soi Nhụ và một số hang động khác ở Hoàng Bồ và trên Đảo Cát Bà. Các công cụ mài lưỡi gợi lại hình dáng rìu Bắc Sơn còn thấy phổ biến tại các địa điểm ngoài trời như Hòn Ngò, Núi Hứa…
Văn hóa Soi Nhụ được chia thành ba giai đoạn: sớm, trung và muộn, tùy theo các di chỉ khảo cổ khác nhau ở Vịnh Hạ Long và các tỉnh lân cận (vdstravel.vn).
Giai đoạn sớm (23.000–15.000 tCN): Được đặc trưng bởi công cụ đá, xương động vật và di tích ốc sên được tìm thấy trong các hang động. Công cụ đá chủ yếu được làm từ thạch anh hoặc thanh ngà, bao gồm mảnh vỡ, dao cạo, dao khắc, mũi nhọn và dao. Xương động vật thuộc nhiều loài như hươu, lợn rừng, khỉ, rùa, cá và ốc sên. Di tích ốc sên cho thấy người của giai đoạn này khai thác nguồn lợi biển làm thức ăn.
Giai đoạn trung (15.000–7.000 tCN): Được đánh dấu bởi gốm, rìu đá mài và trang sức làm từ vỏ và răng động vật được tìm thấy trong các hang động. Gốm chủ yếu là gốm trơn hoặc trang trí bằng dấu dây hoặc rạch. Rìu đá mài được làm từ đá xanh hoặc bazan, có hình oval hoặc chữ nhật. Trang sức bao gồm hạt, móc treo, nhẫn, vòng tay và vòng cổ làm từ vỏ (như hàu, ngao, ốc) hoặc răng động vật (như hươu hay lợn rừng).
Giai đoạn muộn (7.000–4.000 tCN): Được phân biệt bởi nhiều kiểu gốm đa dạng hơn, công cụ đá có hình học và bằng chứng về nông nghiệp và thuần hóa động vật được tìm thấy trong các hang động và hang núi. Các kiểu gốm bao gồm gốm phủ men đỏ với hoa văn hình học hoặc trang trí nổi. Công cụ đá bao gồm mũi tên, tam giác, vuông, tròn và lưỡi liềm làm từ thạch anh hoặc thanh ngà. Bằng chứng về nông nghiệp và thuần hóa động vật bao gồm hạt giống thực vật (như lúa hoặc kê) và xương động vật (như chó hoặc lợn).
Nguồn sưu tầm