Niên đại của Văn hóa Sa Huỳnh thay đổi nhiều tùy theo nguồn.
- Trang web vi.wikipedia.org cho biết Văn hóa Sa Huỳnh có niên đại năm 1000 tCN đến cuối thế kỷ 2;
- Trang web hoianheritage.net (2018) và khoahoc.tv (2024) ghi Văn hóa Sa Huỳnh có niên đại năm 1000–500 tCN;
- TS Nguyễn Thị Hậu (2018) trong trang web của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia cho biết Văn hóa Sa Huỳnh có niên đại năm 1500 tCN – 100;
- Cùng trang web của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia trong một bài viết khác cho biết Văn hóa Sa Huỳnh có niên đại khoảng 2500 tCN – 1.
Trang web của bảo tàng lịch sử hàng đầu lại không biên tập các bài viết của họ cho nhất quán đối với thông tin quan trọng. Người tổng hợp bài này đã gửi e-mail đến Bảo tàng Lịch sử Quốc gia xin xác nhận niên đại của Văn hóa Sa Huỳnh, nhưng không nhận được hồi đáp.
Văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ nước Việt, tạo thành tam giác văn hóa của người Việt thuộc thời kỳ đồ sắt:
- Văn hóa Sa Huỳnh ở Bắc Bộ;
- Văn hóa Đông Sơn ở Trung Bộ; và
- Văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ.
Sa Huỳnh được nhà khảo cổ người Pháp M. Vinet phát hiện lần đầu tiên vào năm 1909 bên đầm An Khê (một đầm nước ngọt ở Sa Huỳnh, Huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi). Các cuộc khai quật vào nhiều năm khác nhau tại di tích gò Ma Vương hay còn gọi là Long Thạnh Đức Phổ – nơi được xem là có niên đại sớm nhất của Văn hóa Sa Huỳnh – đem lại những đánh giá xác đáng và quan trọng về nguồn gốc và quá trình hình thành, phát triển văn hóa Sa Huỳnh. Nền văn hóa Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ trên thế giới nghiên cứu từ đó đến nay và ngày càng sáng tỏ nhiều điều về đời sống của các tộc người thời tiền sơ sử ở miền Trung Việt Nam. Các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam và Bình Định được mệnh danh là “cái nôi Văn hóa Sa Huỳnh”, nhưng thật ra các hiện vật Sa Huỳnh trải dài từ Quảng Bình xuống đến Ninh Thuận.
Người Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển, và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Hoa và Ấn Độ. Những di tích Văn hóa Sa Huỳnh ven biển có thể từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn). Mật độ phân bố và quy mô các di tích cho biết đó là những khu vực tụ cư đông đúc và lâu đời, một xã hội sức có nền sản xuất khá phát triển và do đó, vào giai đoạn cuối của nền văn hóa này có thể đã hình thành một hình thái “nhà nước sơ khai” kiểu liên minh bộ lạc.
Văn hóa Sa Huỳnh được xác định thuộc thời đại đồ sắt sớm, có nguồn gốc bản địa, địa bàn phân bố rộng, tập trung chủ yếu ở Trung Bộ. Văn hóa Sa Huỳnh có ảnh hưởng và giao lưu với nhiều vùng Đông Nam Á cũng như Trung Hoa cổ xưa và Ấn Độ cổ xưa. Bản đồ dưới đây chỉ Văn hóa Sa Huỳnh năm 200 tCN, dưới thời Hán Cao Tổ bên Trung Hoa (lên ngôi năm 202 tCN) trong khi Triệu Đà đang cai trị nước Nam Việt sau khi đánh thắng An Dương Vương năm 208 tCN.

Mai táng bằng mộ chum
Năm 1909, nhà khảo cổ học người Pháp M. Vinet lần đầu phát hiện khoảng 200 quan tài bằng chum, còn được gọi là mộ chum, ở Sa Huỳnh (Huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi). Người ta gọi di tích khảo cổ đó là Kho Chum Sa Huỳnh (Pháp ngữ: Dépot à Jarres Sa Huỳnh).
Những mộ chum thuộc Văn hóa Sa Huỳnh được chôn thành cụm, thường ở cồn cao ven biển, ven sông, với nhiều hình thức mai táng: cải táng, hỏa táng, hung táng trẻ em, và mộ tượng trưng.
Mộ chum Sa Huỳnh đa dạng về kích thước và kiểu dáng như: chum hình trụ, chum hình trứng, chum trung gian giữa hình trụ và hình trứng, chum hình cầu, chum lồng nhau… Chum thường có nắp hình nón cụt đáy bằng, loại gần hình chóp nón đáy gần nhọn, loại hình cầu đáy lòng chảo… Kích thước chum khá đa dạng, chum lớn nhất có chiều cao tới 1,8m, đường kính một mét, đa phần cao dưới một mét, đường kính 50-60 cm.

Trong mộ chum bao giờ cũng kèm theo vật tùy táng như đồ gốm, công cụ đá, công cụ sắt, đồng và đồ trang sức…. Những vật tùy táng được tìm thấy trong mộ chum thể hiện một tín ngưỡng riêng của cư dân Sa Huỳnh cũng như của cư dân vùng biển ở nhiều khu vực trên thế giới. Cuộc sống của họ gắn liền với biển và đến khi chết người thân đưa họ về với biển.
Riêng tại Quảng Nam, trên 50 địa điểm thuộc văn hóa Sa Huỳnh được đào thám sát và khai quật. Bước đầu thu thập được rất nhiều mộ chum phục vụ cho công tác nghiên cứu. Qua sưu tập mộ chum hiện đang được trưng bày ở Bảo tàng Quảng Nam hiện nay, có thể tái hiện một phần đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Sa Huỳnh phát triển đến một trình độ cao.
Trồng trọt
Dân cư cổ thuộc Văn hóa Sa Huỳnh định cư chủ yếu dọc hai bên vùng đất thấp thuộc các con sông dọc bờ biển miền Trung Việt Nam, trải dài từ Quảng Bình cho đến Phú Yên. Họ thuộc một nguồn gốc văn minh lúa nước Đông Nam Á. Những dụng cụ bằng sắt như cuốc, dao, kiếm, lao, đục, xà beng… được tìm thấy ở đây. Đồ gốm lớn với hoa văn đẹp, cùng với kỹ thuật dùng bàn xoay làm lạc hướng các nhà khảo cổ về nguồn gốc của Vương quốc Chiêm Thành, những đồ gốm dùng để đựng các vật dụng và sản phẩm nông nghiệp, đánh cá và cả mai táng người chết.
Phần đất miền Trung bao gồm xứ Quảng là nơi tụ hội và giao tiếp văn hóa Tây–Đông, giữa miền núi với miền biển và đồng bằng xứ Quảng đã từng là nơi hội tụ văn hóa, kết tinh văn minh, dựng lên nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Lúa hai mùa, tằm tám lứa, tơ mỗi năm được sử sách chép đến sớm nhất là đồng bằng xứ Quảng, trung tâm của nền văn hóa Sa Huỳnh. Sách sử có nói đến người Cham trồng hai vụ lúa và để thích ứng với thời tiết, người Cham tìm ra giống lúa chịu hạn gieo trồng vào đầu mùa khô, để đầu mùa mưa thì lúa chín. Sử sách gọi là mùa Chiêm. Cũng do hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt khô hạn nên cư dân cổ Sa Huỳnh và Champa đã đào cả một hệ thống giếng lấy nước tưới cho cây trồng nên giới nghiên cứu ghi nhận một nền văn hóa gọi là “văn hóa Giếng Champa cổ”.
Đánh cá và đi biển
Người Sa Huỳnh cổ là những cư dân nông nghiệp, và đi biển chỉ là một trong những sinh hoạt của họ. Các đồng tiền Ngũ Thủ và Vương Mãng (đầu thế kỷ 1 tCN), các gương đồng của Nhà Tây Hán (202 tCN – 8), đỉnh đồng Nhà Đông Hán (25–220) có trong các mộ chum chứng tỏ họ đã có một nền sản xuất hàng hóa cùng với sự giao thương khá phát triển. Người Cham biết khai thác trầm hương, quế, ngà voi, sừng tê, dầu rái, ngọc, vàng trên núi, hồ tiêu trên đồi; biết làm ruộng hai mùa ở đồng bằng hẹp Minh Kinh và Ô Chân. Họ trồng cau, dừa và trồng dâu nuôi tằm một năm tám lứa từ trước kỷ nguyên Dương lịch. Họ biết làm thuyền to được gọi là nốôc (bàu) và thuyền nhỏ (tròong ghe).
Hai cảng Cửa Việt và Cửa Tùng (đều ở Tỉnh Quảng Trị ngày nay) từng là hải cảng quốc tế từ lâu trước khi Lâm Ấp được thành lập, nhưng phồn thịnh nhất là thời Vương quốc Champa cùng thời với Triều Đường (618–907) bên Trung Hoa. Người Cham biết đánh cá biển và buôn bán đường biển trên vùng Đông Nam Á, từ ven biển Trung Hoa xuống tới Ấn Độ Dương.
Đồ trang sức và kỹ thuật làm thủy tinh Sa Huỳnh
Nghề chế tác đồ trang sức bằng đá và thủy tinh cũng là nghề thủ công quan trọng của người Sa Huỳnh. Cư dân cổ Sa Huỳnh có năng khiếu, khéo tay, và mỹ cảm cao; Họ ưa thích dùng đồ trang sức (vòng, nhẫn, khuyên tai, vật đeo hình dấu phảy, hạt chuỗi…) bằng thuỷ tinh, mã não, đá quý, đá hay đất nung. Khuyên tai (hay bùa đeo) hai đầu thú và ba mấu là một trong những đồ trang sức đặc sắc của người Sa Huỳnh

Ở những khu mộ táng của Văn hóa Sa Huỳnh ở Lai Nghi (Phường Điện Nam, Thị xã Điện Bàn, Quảng Ngãi ngày nay), các nhà khảo cổ tìm thấy những bộ hạt chuỗi có giá trị. Trong khi rây bằng sàng, họ phát hiện được hơn 8600 hạt cườm bằng thủy tinh màu xanh, vàng hoặc nâu có đường kính 1-3 mm. Ngoài bộ hạt chuỗi gồm khoảng 1500 hạt bằng đá mã não, achat, crystal, amethyst, nephrite và vàng, còn có 4 khuyên tai bằng vàng. Người Văn hóa Sa Huỳnh ở Lai Nghi thích sử dụng nhiều nhất loại đá ngọc mã não làm đồ trang sức. Hơn 15 hình dạng hạt chuỗi khác nhau được chế tác – có lẽ bằng đá mã não đến từ khu vực Myanmar hoặc Ấn Độ. Trong tổng số 1.136 hạt chuỗi bằng đá mã não được tìm thấy ở Lai Nghi có 3 chiếc rất đặc biệt: chiếc thứ nhất có hình con chim nước, chiếc thứ hai có hình con hổ hoặc sư tử và chiếc thứ ba là hạt chuỗi khắc. Cả ba hạt chuỗi này được phát hiện trong 3 mộ chum khác nhau cùng với nhiều đồ tùy táng quý khác có niên đại thế kỷ 1–tCN. Những di vật hiếm thấy khác ở miền Trung Việt Nam được kể đến là hai chiếc gương bằng đồng của thời kỳ Tây Hán.
Thủy tinh nhân tạo là một thành tựu rực rỡ của Văn hóa Sa Huỳnh. Các cư dân dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh (mà sử sách Hoa ngữ gọi là “lưu ly” gốc từ chữ Phạn là verulia) từ đầu Công nguyên. Đây là một trong những nơi làm ra thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới. Chúng không những đa dạng về kiểu dáng mà còn phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Sử Trung Hoa từng ghi chép về một chén thủy tinh xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lưu ly với một sự trân trọng và khâm phục.
Nổi bật trong những vật trang sức của người Sa Huỳnh là khuyên tai ba mấu dành cho phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú của nam giới. Nếu khuyên tai ba mấu dịu dàng, tinh tế và khá duyên dáng thì khuyên tai hai đầu thú lại thể hiện chất dũng mãnh, kiêu hãnh và cường tráng của nam giới. Những vật trang sức chế tác từ đá, mã não và thủy tinh có thể nói là những tinh hoa đặc sắc nhất mà nền văn minh này sáng tạo ra và được phổ biến khắp vùng Đông Nam Á. Người ta tìm thấy khuyên tai ba mấu và khuyên tai hai đầu thú ở Thái Lan, Malaysia, Philippines và Đài Loan.
Đồ gốm Sa Huỳnh
Người Sa Huỳnh rất khéo tay và có mỹ cảm tuyệt vời. Các đồ gốm gia dụng đều được tạo dáng thanh nhã, cân đối, hoa văn phong phú, sinh động, thể hiện một tâm hồn tinh tế và giàu xúc cảm.
Nghệ nhân Lâm Dũ Xênh, chuyên sưu tập những mẫu hiện vật thuộc Văn hóa Sa Huỳnh, cho biết đặc trưng gốm Sa Huỳnh là hoa văn đơn sơ, được sản xuất chủ yếu bằng thủ công, chất liệu đất sét có pha cát xốp, không tráng men, sản phẩm được nung nhẹ lửa, đều. Trong khi đó, các sản phẩm thuộc nền văn hóa khác chủ yếu dùng đất cao lanh, có sử dụng men, nung ở nhiệt độ cao, hoa văn đa dạng.

Trong gốm Sa Huỳnh, các đồ đựng như bát, bình có chân đế, có thân gãy ở vai hay đáy, chiếm tỷ lệ lớn. Mẫu gốm thường gặp là vàng đỏ, đôi khi xám-nâu, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S và đệm tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò. Trong các di chỉ mộ táng, phổ biến là mộ chum, trong chum chứa nhiều đồ trang sức bằng đồng, đá quý, thủy tinh, đặc biệt là loại khuyên tai ba mấu nhọn và khuyên tai hai đầu thú. Các đặc trưng đó của Văn hóa Sa Huỳnh cũng tìm được ở các di chỉ trong lưu vực Sông Đồng Nai. Có nơi còn có những đặc trưng xưa hơn, mà khảo cổ học gọi là văn hóa thời tiền Sa Huỳnh.
Hồi sinh gốm Sa Huỳnh
Trải qua hàng ngàn năm, nghề gốm cổ Sa Huỳnh dần đi vào quên lãng. Thế nhưng, Hợp tác xã (HTX) Gốm tiền sử Sa Huỳnh được thành lập cuối tháng 11-2023 nhằm hỗ trợ những người thợ làm gốm còn lại ở Sa Huỳnh phục dựng, mô phỏng từ kỹ thuật, hoa văn nhằm làm hồi sinh dòng gốm này.
Dựa theo hình mẫu, những người thợ làm gốm tại Xóm 26, Thôn Vĩnh An, Xã Phổ Khánh, Thị xã Đức Phổ, Quảng Ngãi, tìm cách phục dựng, hồi sinh cách làm và hoa văn gốm cổ Sa Huỳnh.
Khôi phục một nghề gốm đã có niên đại 2.000-3.000 năm không phải là điều đơn giản, các thợ gốm ngày nay đã không còn biết về đặc trưng gốm cổ Sa Huỳnh. Muốn phục dựng lại, họ phải “quên hết” cách làm các dòng gốm khác, quay lại với cách làm thủ công, thay đổi cách nung, trang trí hoa văn để gốm cổ Sa Huỳnh tiếp tục trường tồn trong dòng chảy đương đại.

Để làm ra sản phẩm gốm mô phỏng gốm cổ Sa Huỳnh, người thợ trải qua nhiều công đoạn như khâu chọn đất sét, dùng tay nhào thật kỹ rồi đắp thành từng ụ đất lớn, tạo nên độ mịn, dẻo.
Khâu khó nhất là khâu nặn đất, một tay tạo hình, một chân đẩy liên tục bàn xoay nhịp nhàng. Nhiều nơi, khi đến khâu tạo hình trên bàn xoay, họ sử dụng bàn xoay bằng điện để giảm sức nhưng tôi và các hộ dân ở đây vẫn giữ cách làm xưa, nhất là dùng chân đạp bàn xoay. Sau đó đến vẽ trang trí, nung sản phẩm trong lò nung bằng đất, phơi nắng cho rắn chắc.
Theo như nền văn hóa Sa Huỳnh, trước đây cư dân cổ dùng bàn xoay chậm để làm gốm, và hiện nay các hộ dân vẫn dùng bàn xoay chậm. Đây là khâu thủ công nhất đến ngày nay còn bảo tồn, gìn giữ qua nhiều thế hệ. Các hoa văn trang trí của tiền sử Sa Huỳnh được các chuyên gia tổng hợp và hỗ trợ các hộ dân để làm hình mẫu gốm Sa Huỳnh. Qua quá trình tạo tác, nhiều sản phẩm đã mô phỏng tương đối theo hình dáng gốm cổ Sa Huỳnh và đạt tỷ lệ rất tốt. (sggp.org.vn)
Xã hội Sa Huỳnh
Khoảng năm 1000 tCN, trên lưu vực Sông Đồng Nai mà lãnh thổ Lâm Đồng là thượng nguồn, có những bộ lạc sinh sống với một nền văn hóa đồng–sắt đã phát triển và có đặc trưng riêng. Các bộ lạc này là tiền thân của các dân tộc bản địa.
Sách Lịch sử Việt Nam (Phan Huy Lê et al., 2018) cho biết, bấy giờ trên địa bàn của Văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống:
Bộ lạc Dừa (chữ Phạn là Narikela vam’sa) ở vùng Bình Định, Quảng Nam ngày nay. Từ thế kỷ đầu trước Công nguyên bị nhà Hán đô hộ (cùng thời kỳ với nước Âu Lạc) và đặt tên là Huyện Tượng Lâm. Năm 190-193, dân Tượng Lâm nổi dậy đánh đuổi người Hán, lập nên nước Lâm Ấp (theo tên gọi của thư tịch cổ Trung Hoa), tồn tại đến khoảng năm 605. Vương quốc này được coi là giai đoạn khởi đầu cho lịch sử Chiêm Thành độc lập.
Bộ lạc Cau (chữ Phạn là Kramuka vam’sa) cư trú vùng Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận trở vào. Khoảng đầu công nguyên đã hình thành một tiểu vương quốc riêng có tên là Panduranga (tên Phạn) hay Pan-Rãn (tiếng Cham cổ), về sau được gọi là Chiêm Thành, có địa bàn từ Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết ngày nay.
Đồ sắt Sa Huỳnh
Đồ sắt là loại hình di vật nổi bật nhất trong Văn hóa Sa Huỳnh. Trong đó, bộ công cụ và vũ khí bằng sắt hết sức đa dạng. Tại những địa điểm Văn hóa Sa Huỳnh, công cụ sắt chiếm số lượng lớn. Đồ sắt được sản xuất chủ yếu bằng phương pháp rèn, kết quả phân tích chín mẫu của sưu tập đồ sắt Đại Lãnh đã cho thấy chúng đều được chế tạo bằng phương pháp rèn, kỹ thuật đúc cũng gặp ở một số hiện vật. Nhìn chung, những người thợ sắt cổ Sa Huỳnh có tay nghề khá thành thạo trong việc rèn nóng. Tính đến 2013, số lượng đồ sắt Sa Huỳnh phát hiện được đã lên tới hàng trăm chiếc. Chủng loại đồ sắt khá đa dạng gồm rựa, dao quắm, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm ngắn, dao, qua đồng…
Tập tục tín ngưỡng
Tập tục độc đáo của cư dân Sa Huỳnh là chôn người quá cố trong các chum lớn, có những chiếc chum cao đến 1,2 m. Chum được làm từ vật liệu đất đen hay đất có màu đỏ và được nung khá tốt. Người chết được táng trong chum với tư thế ngồi bó gối – như một hiện tượng được sống tiếp với thế giới cõi âm. Đồ tùy táng theo người chết tùy thuộc vào sự giàu có hay nghèo khó của người chết mà có nhiều hay ít hiện vật được chôn theo.
Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Champa
Cùng trên địa bàn mà sau này hình thành nhà nước Lâm Ấp – vương quốc Chămpa, mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chămpa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Những năm gần đây, nhiều cuộc khai quật khảo cổ học được tiến hành nhằm tìm hiểu mối quan hệ này. Địa bàn quan trọng là Tỉnh Quảng Nam vì đây được xem là trung tâm của Văn hóa Sa Huỳnh và Căn hóa Champa. Trong nhiều di tích, các nhà khảo cổ tìm thấy những mảnh gốm vừa mang đặc điểm của gốm Sa Huỳnh và cả đặc điểm gốm Champa. Đây là nguồn tư liệu quan trọng để chứng minh con đường phát triển từ Văn hóa Sa Huỳnh lên Văn hóa Champa. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra từ thư tịch cổ một số “yếu tố Sa Huỳnh” trong xã hội và văn hóa Champa. Từ không gian và thời gian, trên cơ sở những tư liệu khảo cổ học, đến nay có thể cho rằng nhà nước Champa là sự tiếp nối văn hóa Sa Huỳnh, được hình thành trên cốt lõi văn hóa Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa ngoại sinh Trung Hoa và Ấn Độ.
Người Sa Huỳnh theo tín ngưỡng thờ mẫu (mẹ, bà) và còn tồn tại cho đến ngày nay ở các dân tộc Cham và các cư dân bản địa Tây Nguyên. Tuy theo đạo Hồi nhưng họ đã biến cải thành đạo Bani mang bản sắc văn hóa truyền thống Champa thờ thần linh và ông bà tiên tổ.
Đồng bào Cham còn lưu lại một nền văn hóa cổ với những vần thơ dân gian, những bia ký sử thi văn học, những giai thoại truyền kỳ lịch sử cùng với nghệ thuật điêu khắc, tạc tượng tinh vi, sống động của truyền thống của người Môn-Việt thời cổ đại.
Những nơi lưu giữ hiện vật Văn hóa Sa Huỳnh:
- Bảo tàng Đà Nẵng
- Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội An.
- Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh–Champa ở Trà Kiệu, Duy Sơn, Duy Xuyên, Quảng Nam
- Bảo tàng Tổng hợp Quảng Ngãi;
- Khu di tích Văn hóa Sa Huỳnh ngoài trời ở địa bàn các xã Phổ Thạnh và Phổ Khánh, Huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi.
Video
Văn hóa Sa Huỳnh, lịch sử và giá trị | PTQ – https://www.youtube.com/watch?v=3kkgdXT3Rac
Nguồn: Lâm Thị Mỹ Dung (2019), Nguyễn Văn Sơn (2014), Wikipedia_Văn hóa Sa Huỳnh.
Hiện vật thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Bảo vật Quốc gia: Bộ sưu tập bình gốm đất nung Long Thạnh thuộc Văn hóa Sa Huỳnh 1390±40 tCN
Bộ sưu tập 18 bình gốm được tìm thấy trong cuộc khai quật di tích khảo cổ Long Thạnh thuộc Xã Phổ Thạnh, Huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi. Bộ sưu tập thường được cho là có niên đại 3.370± 40 năm. Nếu tính con số đó từ thời điểm khai quật, niên đại là năm 1390±40 tCN.
Bộ sưu tập bình gốm đất nung Long Thạnh có giá trị đặc sắc về nghệ thuật tạo dáng, trang trí đạt trình độ thẩm mỹ cao, được tạo tác từ bàn tay khéo léo tài hoa của người Sa Huỳnh, phản ánh nghề gốm thủ công rất phát triển trên vùng đất Quảng Ngãi trong thời kỳ đó.
Bộ sưu tập bình gốm gồm 18 hiện vật có những dấu hiệu chung về hình dáng, chất liệu và nội dung, tiêu biểu cho loại hình đồ gốm có giá trị đặc sắc về nghệ thuật tạo hình và trang trí được phát hiện trong di tích khảo cổ Long Thạnh của Văn hóa Sa Huỳnh.

Nhìn chung, bộ sưu tập bình gốm này được tạo dáng một cách cân đối, hài hòa theo dáng hình lọ hoa với miệng loe xiên rộng, cổ eo hoặc cổ đứng, thân có dạng hình cầu hoặc hình con tiện với đường gấp khúc giữa thân và đáy, trong đó có 17 bình có chân đế thấp và 1 bình không có chân đế. Về kích thước, 17 bình cao 16–22 cm và 1 bình cao 12 cm.

Những bình gốm này có màu đặc trưng là đỏ gạch. Hoa văn trang trí là đồ án hình chữ S, tam giác nằm ngang chạy bao toàn bộ phần thân bụng và miệng của hiện vật, cùng với các loại văn thừng mịn, văn in chấm que, văn in chấm vỏ sò, văn vạch kết hợp với đắp nổi tạo gờ. Trong đó, đóng vai trò chủ đạo là hoa văn khắc vạch thể hiện sóng biển…còn các loại hoa văn khác chỉ dùng làm nền. Các đồ án đa dạng mô tả chữ S gãy góc ở đỉnh tựa như ngọn sóng biển xô dạt vào bờ, mô tả cuộc sống của cư dân văn hóa Sa Huỳnh gắn liền với biển cả, vươn ra biển, khai thác biển. Phối hợp với các đồ án trang trí nói trên còn có các mảng tô màu đỏ kết hợp với màu đen ánh chì, tạo nên những tác phẩm đẹp mắt.
Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Ngãi.
Lọ đất nung thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Nơi lưu giữ hiện vật: Không rõ.
Bình đất nung thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Chõ đất nung thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Chỗ đất nung là hiện vật quan trọng trong di tích Bãi Cọi. Số lượng chõ gốm được phát hiện ở Bãi Cọi là 11. Trong đó, riêng đợt khai quật năm 2012 phát hiện 9 chõ chôn trong 7 ngôi mộ. Việc chôn chung những vật dụng sinh hoạt như chõ tại di tích mộ táng cho thấy phong tục mai táng và văn hóa ẩm thực của cư dân. Sự ảnh hưởng của gốm Đông Sơn trong gốm Bãi Cọi cũng được thể hiện rõ nét qua sự xuất hiện của chõ gốm này..

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Nam.
Chuỗi ngọc thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Xét theo màu sắc, độ bóng bẩy và hình dáng bên ngoài, các chuỗi ngọc thuộc Văn hóa Sa Huỳnh cách nay 2000–300 năm trông không khác gì những sản phẩm thời hiện đại.

Nơi lưu giữ hiện vật: không rõ.
Bộ sưu tập công cụ sản xuất đồ đá thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Ngãi.
Đèn đất nung thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Trong những đồ dùng sinh hoạt của Văn hóa Sa Huỳnh, loại hình đèn đất nung chiếm khá phổ biến và thường có cấu tạo: phần miệng rộng loe hoặc khum; có gờ cao và rãnh có thể để đựng dầu; phần đế choãi giống bình hoặc bát bồng được trang trí hoa văn khắc vạch. Những chiếc đèn này có phần chân được trổ lỗ hình tam giác, chân vững chãim chính vì vậy mà nhiều nhà khoa học còn cho rằng những chân đèn này có thể đã được cư dân đương thời sử dụng rộng rãi, gắn liền với tập quán sinh hoạt.
Sự phổ biến của loại hình đèn trong Văn hóa Sa Huỳnh, đặc biệt trong những ngôi mộ táng, phần nào thể hiện chắc hẳn đây là một trong những vật dụng quan trọng trong đời sống sinh hoạt thường ngày cũng như trong các nghi lễ mai táng của cư dân Băn hóa Sa Huỳnh. Cũng như bao cư dân khác trên đất nước như Đông Sơn, Đồng Nai, Óc Eo…, có lẽ lúc bấy giờ, cư dân Băn hóa Sa Huỳnh đã biết dùng đèn dầu để thắp sáng phục vụ đời sống trên trần gian cũng như khi sang thế giới bên kia. Vì thế, đèn trở thành đồ tùy táng không thể thiếu trong những ngôi mộ.
Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Khuyên tai hai đầu thú thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Ghi chú: Trang web của Bảo tàng Đà Nẵng khi trình bày hiện vật này cho biết Văn hóa Sa Huỳnh vào khoảng năm 1000 tCN đến cuối thế kỷ thứ 2, trong khi các nguồn khác ghi bắt đầu năm 500 tCN.
Khuyên tai hai đầu thú có móc đeo nhô cao ở giữa, hai chiếc đầu thú có sừng chạm đối xứng ở hai bên làm bằng đá hoặc thủy tinh. Cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa đồng ý với nhau đây là con thú gì, vì chưa có ý kiến nào đủ sức thuyết phục nên nó vẫn được gọi là khuyên tai “hai đầu thú”.

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Đà Nẵng.
Lọ bằng đá hình tù và thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Đây là lọ đựng nước hoặc nậm rượu. Chiếc lọ được làm bằng đá, cao 7 cm. Hiện vật có hình dạng khác thường, giống như một chiếc tù và, mà giới chuyên môn nước ngoài cho là kỳ bí (enigmatic). Có lẽ một phần lý do là nếu để đựng nước hay rượu thì không thể để hiện vật này xuống để tự nó đứng vững nên phải cầm mãi trên tay (?)
Được cho là có liên quan tới Văn hóa Sa Huỳnh, và có lẽ được dùng trong nghi thức tang lễ.

Nơi lưu giữ hiện vật: The Metropolitan Museum of Art (gọi tắt The Met), Tp New York, Hoa Kỳ.
Mộ chum đất nung thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Nam.
Mộ chum đất nung Cồn Ràng thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Vị trí mộ chum: Cồn Ràng ở Thị xã Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Cồn Ràng là một trong những khu mộ lớn nhất của Văn hóa Sa Huỳnh.
Năm 1987, trong mùa điền dã khảo cổ, thầy trò Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế đến Cồn Ràng thử khai quật một số điểm, phát hiện 3 chum kích thước lớn và các di vật gốm, hạt trang sức bằng đá mã não và thủy tinh. Tiếp đến là các cuộc khai quật của Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với Bảo tàng Tổng hợp Thừa Thiên Huế.
Đến nay, các nhà khảo cổ khai quật được 217 ngôi mộ, chủ yếu là mộ chum phân bổ thành từng cụm thẳng hàng, tứ giác, tam giác, ngũ giác. Mộ chum Cồn Ràng có 4 dạng: Dạng hình trụ, hình trứng, hình cầu; giữa trụ và trứng, được trang trí nhiều loại hoa văn, có chum trang trí văn đập xung quanh vai, có chum trang trí văn thừng toàn thân, đa số các chum để trơn phần thân và đáy. Nắp mộ chum có 3 loại: Loại nón cụt, đáy bằng, hình cầu đáy lòng chảo và loại nón chóp đáy nhọn. Cách thức bài trí: Trên nắp, quanh vai và thân mộ chum thường đặt đồ gốm như nồi bình niên, bát đèn; bên trong là đồ trang sức như khuyên tai hình bông hoa rau muống, hình đầu thú…
Ảnh dưới đây cho thấy một số mộ chum đất nung hình cầu ở di chỉ Cồn Ràng.

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Tổng hợp Thừa Thiên Huế.
Mộ chum đất nung hình trụ đáy tròn thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Táng tục người chết trong các mộ chum, mộ vò được làm bằng đất nung là một trong những nét đặc trưng nổi bật của Văn hóa Sa Huỳnh. Khi nghiên cứu tục mai táng người chết trong các chum vò của người Sa Huỳnh, hiện nay các nhà nghiên cứu cho rằng, người Sa Huỳnh sau khi chết đi được chôn vào trong các chum táng, vò táng với quan niệm: con người sinh ra từ bụng mẹ đến khi chết đi rồi vẫn về với bụng mẹ, bụng mẹ ở đây là sự biểu trưng của các chum táng, vò táng với kích thước lớn, nhỏ khác nhau. (Võ Cáp, 2020)
Ta thấy các nhà khảo cổ học đã cất công phục dựng, chắp nối các mảnh của hiện vật, nhưng ta không khỏi băn khoăn: Liệu có thể dùng loại bột màu nào đó hợp với màu hiện vật để các mảng và đường nối đừng quá lộ liễu hay không?

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia & Bảo tàng Quảng Nam.
Mộ chum đất nung hình trứng thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Nam.
Mộ chum đất nung hình trái đào Bãi Cọi thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Qua 3 lần khai quật Bãi Cọi (Hà Tĩnh), các nhà khảo cổ đã phát hiện được 17 mộ chum. So với những chum đất nung của các di tích Văn hóa Sa Huỳnh điển hình, chum ở Bãi Cọi có kích thước nhỏ hơn, hình dáng biến đổi nhiều, chủ yếu là hình trái đào và hình trứng.
Đây là mộ chum cỡ vừa với nắp chum, là phần thân của loại bình có chân được cắt ra và mài nhẵn phần thân, trên mặt bị vỡ còn dấu tích của mặt cắt. Các mảnh gốm được rải đều phía trên của chum chính, tạo thành một lớp bảo vệ chum chính và đồ tùy táng được xếp xung quanh. Đường kính của mộ 74 cm. Chum mai táng cao 54 cm, đường kính 45 cm.
Hình dưới, trái: Mộ chum cao 54 cn, đường kính 45,3 cm. Đây là mộ chum cỡ vừa với nắp chum là phần thân của bình có chân được cắt ra và mài nhẵn phần thân. Phải: Đồ tùy táng gồm chõ, bình nhỏ, nồi nhỏ – có kích thước khá đa dạng và là những vật dụng gắn bó với đời sống cư dân.

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Nam.
Mộ chum đất nung hình cầu thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Mộ nồi đất nung thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Mộ nồi là loại táng thức đặc biệt được tìm thấy ở di tích Bãi Cọi. Loại hình mộ này gồm một chiếc nồi úp vào một chiếc bình hoặc nồi khác, tức là một chiếc nồi được dùng làm nắp đậy cho chiếc còn lại. Tư thế người chết được mai táng là quỳ. Do kích thước tương đói nhỏ nên có ý kiến cho rằng mộ nồi được dùng để chôn trẻ em hoặc là làm mộ gió.

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Nam.
Nồi đất nung thuộc Văn hóa Sa Huỳnh

Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Lịch sử, Tp HCM.
Tượng người ngồi bằng đồng thuộc Văn hóa Sa Huỳnh
Tượng bằng đồng cao 8,9 cm, thuộc thời đại đồ đồng của Văn hóa Sa Huỳnh. Bức tượng trông ngộ nghình hẳn là do chủ ý: Các bộ phận cơ thể không cân đối với nhau, thậm chí có bộ phận quá khổ. Cho dù là thời xa xưa, nghệ nhân không quá kém cỏi để đưa ra sự vô lý về cơ thể học như thế. Có lẽ việc này chịu ảnh hưởng từ tín ngưỡng phồn thực.

Nơi lưu giữ hiện vật: The Metropolitan Museum of Art (gọi tắt The Met), Tp New York, Hoa Kỳ.