Niên đại của Văn hóa Phùng Nguyên khác biệt tùy theo nguồn:
- Trang web bktt.vn của Bách khoa Toàn thư Việt Nam và vi.wikipedia.org: 2000–1500 tCN;
- Trang web baotanglichsu.vn của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia: 2000-500 tCN.
Do sự khác biệt này, thông tin về niên đại của Văn hóa Phùng Nguyên chỉ có tính tham khảo.
Di tích Phùng Nguyên tình cờ được phát hiện vào năm 1959 khi thi công một công trình thủy lợi ở Xã Kim Kệ, Huyện Lâm Thao, Phú Thọ. Kể từ cuộc khai quật đầu tiên trở về sau, đã có hơn 60 di tích thuộc Văn hóa Phùng Nguyên được phát hiện trên vùng đồng bằng Sông Hồng và hơn phân nửa trong số ấy đã được khai quật.
Từng có các nền văn hóa khảo cổ xuất hiện rất sớm trên đất Việt như Hòa Bình, Bắc Sơn, v.v… Tuy nhiên ở các thời đại đồ đá xa xưa và kéo dài hàng vạn năm ấy, người nguyên thủy trên đất Việt hầu như chưa biết làm nghệ thuật. Đơn giản là trình độ sống của họ còn rất thô sơ với các công cụ ghè đẽo bằng đá. Mãi đến cuối thời đại đó, họ mới biết đan lát, làm gốm. Cũng còn tìm thấy được những mảnh gốm của người nguyên thủy trước Phùng Nguyên với cách tạo dáng sơ khai và một số hoa văn đơn giản, chưa thành hệ thống. (mythuatms.com)
Do những điều kiện thiên nhiên và khí hậu ưu đãi, khoảng 2000 năm tCN, người nguyên thủy tiến hóa thành người Việt cổ cùng với sự xuất hiện rạng rỡ của Văn hóa Phùng Nguyên. Trong khoảng một thiên niên kỷ của văn hóa khảo cổ này, người Việt đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc chế ngự thiên nhiên, nâng tầm cuộc sống, xây dựng xã hội và tạo ra những sản phẩm có chất lượng nghệ thuật như đồ đá, gốm và trang sức.
Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới. Văn hóa Phùng Nguyên phân bố dọc theo vùng đồng bằng trung du, nơi hợp lưu các dòng Sông Thao, Sông Lô, Sông Đà, Sông Hồng, Sông Đáy thuộc các tỉnh, thành Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh.
Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như Văn hóa Phùng Nguyên còn có Văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực Sông Mã, Sơn La), văn hóa của các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực Sông Lam (Nghệ An, Hà Tĩnh, của các bộ lạc ở thượng lưu Sông Mã (Huyện Sông Mã, Sơn La), Văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung Bộ), Văn hóa Đồng Nai (Đông Nam Bộ).
Bản đồ dưới đây chỉ các nền văn minh khoảng năm 1000 tCN, trong đó các bộ tộc Bách Việt (Yue) sinh sống ở miền nam Trung Hoa. Vào thời kỳ này, bên Trung Hoa là nhà Tây Chu (Zhou trong bản đồ, 1121-770 tCN).

Phùng Nguyên là tên một làng ở Xã Phùng Nguyên, Huyện Lâm Thao, Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này. Di chỉ Văn hóa Phùng Nguyên từng được phát hiện ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hà Nội, Hải Phòng, và một vài nơi khác trong lưu vực Sông Hồng. Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên còn biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí. Trong đời sống của cư dân Phùng Nguyên, đồ đồng và thuật luyện kim xuất hiện, nhưng còn hạn chế.
Kỹ thuật chế tác đá
Người Phùng Nguyên đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đá. Kỹ thuật mài, cưa đá phổ biến, có thể tạo ra những công cụ và đồ trang sức hình dáng phong phú, vừa đạt độ chính xác cao, vừa tiết kiệm được nguyên liệu. Người Phùng Nguyên cũng thành thạo kỹ thuật khoan và tiện đá.
Đồ đá vẫn chiếm số lượng nhiều nhất trong số các di vật thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, gồm các công cụ sản xuất như rìu, bàn mài, bàn dập. Đáng chú ý nhất là loại bàn dập có 6-7 rãnh song song, chưa rõ tác dụng của các loại bàn dập này. Nhiều dọi se sợi được tìm thấy ở các di chỉ.
Kỹ thuật làm gốm
Vì Phùng Nguyên mới chỉ được coi như điểm khởi đầu của văn minh Việt cổ nên đồ gốm thời đó vừa mới thoát ra khỏi trình độ sơ khai, bước đầu đi vào quy củ, sản xuất bắt đầu chuyên môn hóa, chưa có men… và cách rất xa gốm hiện đại nếu xét về trình độ kỹ thuật. Tuy nhiên, nếu xét về mặt nghệ thuật thì đây xứng đáng là sự bừng nở đẹp đẽ một cách đáng ngạc nhiên.
Nhu cầu tiến bộ cuộc sống thúc đẩy người Phùng Nguyên kết hợp đất với lửa mà tạo ra đồ gốm dùng để đựng, đun nấu, ăn uống, sinh hoạt. Họ từng nặn và nung được các bình, vò, nồi lớn với đường kính miệng lên tới 50-60 cm nhưng cũng làm được các cốc, chén, bát… có đường kính chỉ 5-10 cm. Về kỹ thuật, người Phùng Nguyên có bàn xoay để tạo ra gốm miệng tròn hoàn chỉnh, tương đối mỏng đều và căng đều ngoài mặt.

Người Phùng Nguyên từng sản xuất ra một số lượng dồi dào các sản phẩm gốm để đến ngày nay các nhà khảo cổ còn khai quật được nhiều vạn mảnh gốm các loại (ở mỗi di chỉ) và may mắn còn thấy một ít đồ gốm gần như nguyên vẹn. Ở thời hiện đại, chúng ta có quá nhiều đồ gốm, sứ, gỗ, thủy tinh, nhựa, đồng, nhôm, sắt, gang, thép, inox, v.v… nên khó thấy được bước tiến kỳ diệu của người Việt cổ khi sản xuất được hàng loạt gốm đẹp thời Phùng Nguyên. Phải nói đó là bước nhảy vọt về công nghệ vì có bàn xoay. Trước đó, ở hậu kỳ đá mới, người nguyên thủy trên đất Việt Nam mới chỉ làm ra rất ít gốm thô, chủ yếu là nặn tay nên khó căng tròn và mới lác đác trang trí hoa văn sơ khai. (Đức Hòa, không ngày)
Gốm Phùng Nguyên có tạo dáng đẹp, thanh thoát và khá phong phú. Do có kỹ thuật bàn xoay mà đồ gốm thời này luôn có kết cấu cân đối, tròn đều và căng. Ngoài đa số kiểu dáng phổ thông của nồi, bình, vò, cốc, chén, bát, dọi xe chỉ, chì lưới… còn có các dạng đặc biệt như mâm bồng tròn, mâm bồng lục giác, đĩa có tai, thố gốm, bát chân cao, bình tứ giác gần giống cái gùi…
Đồ gốm Phùng Nguyên được tạo bằng bàn xoay (chân, tay) hoặc nặn, gắn, chắp. Họ biết cách tráng gốm phủ ngoài trước khi đưa vào lò nung. Có thể coi đó là bước khởi đầu cho kỹ thuật tráng men gốm sau này. Gốm được nung trong hố hở ở ngoài trời, nhiệt độ khoảng 600-800 độ C.
Loại hình đồ gốm đa dạng, song nhiều nhất vẫn là đồ gia dụng, gồm nồi, bình, bát có chân đế, dáng đẹp. Đồ đựng có đường kính miệng lớn, thành mỏng, có thể coi đó là đặc trưng gốm Phùng Nguyên. Ở một số di chỉ còn tìm thấy bi gốm, có thể đó là đồ chơi cho trẻ con bấy giờ. Hoặc trong nhiều di chỉ suốt thời đại đồng thau từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn còn tìm thấy một hiện vật gốm độc đáo mà tên gọi và công dụng của hiện vật đó đến nay vẫn chưa được thống nhất, đó là chạc gốm hay chân giò gốm. Có ý kiến cho rằng công dụng của chạc gốm giống như những chiếc sừng trâu có dùi một lỗ thủng lớn phía đầu nhọn là một dụng cụ dùng để tiếp nước uống rượu cần.

Kỹ thuật làm gốm của người Phùng Nguyên đạt đến mức tinh xảo về tạo hình, sử dụng chất liệu và tạo hoa văn. Gốm Phùng Nguyên nổi tiếng về những đồ án hoa văn đẹp, đa dạng, phong phú. Hoa văn trang trí trên gốm Phùng Nguyên chắc chắn bắt nguồn từ thiên nhiên nhưng nhanh chóng được cách điệu cao trên cơ sở hình học hóa, hệ thống hóa. Bố cục hoa văn thường được xếp theo băng dải vòng quanh thân và chân đế gốm hay trên mặt mâm bồng. Vì có hệ thống hoa văn trang hoàng ngoài mặt mà gốm Phùng Nguyên đẹp lên bội phần, không chỉ đơn thuần để làm đồ đựng mà còn để làm đồ cúng tế, trưng bày, ngắm nghía, được tăng giá trị khi trở thành sản phẩm trao đổi và buôn bán. Đặc trưng quan trọng nhất của hoa văn gốm Phùng Nguyên là kết cấu đối xứng và lặp đi lặp lại. Đối với người Phùng Nguyên, cái đối xứng quả là một yếu tố của cái đẹp. Dường như nghệ nhân gốm thuở ấy được thỏa chí theo đuổi các kết cấu đối xứng để biến hóa nó khôn cùng, tạo ra vô vàn biến thể hết sức vui mắt, kết hợp tĩnh với động, nghiêm cẩn với linh hoạt. (Đức Hòa, không ngày)

Hiệu quả của các hoa văn trên gốm của người Phùng Nguyên còn cho thấy họ có tư duy đặc biệt về hình học. Thoạt tiên họ vẽ ra được các hoa văn đối xứng. Rồi họ thoải mái xoay chuyển và biến hóa các hoa văn ấy về cả hình dáng, chi tiết và kết cấu từ đơn lẻ đến tổng thể. Họ làm thành các băng hoa văn ngang và dọc, hơn nữa còn làm thành các dải hoa văn chạy vòng tròn, có đồng tâm trên mặt mâm bồng. Họ vẽ ra các hình tròn khá chuẩn – các nhà khảo cổ hiện đại đã tìm thấy dấu vết của một loại gần như compa mà họ đã để lại trên mặt gốm. Họ còn phải căn chỉnh sao cho các băng diềm bao quanh kết thúc một vòng tròn khép kín mà các hoa văn bên trong vẫn cách đều – nhưng các hoa văn ấy không chỉ lặp lại một cách đơn điệu mà còn biến hóa, lật ngược xuôi, đối xứng trục quay và thêm thắt các hoa văn phụ điền vào các chỗ trống nữa. Như vậy hình học được biểu hiện một cách nghệ thuật và nghệ thuật trong tính toán hình học – đó là tài năng đáng kinh ngạc của các nghệ nhân Phùng Nguyên từ thuở sơ khai của dân Việt.
Đồ đồng
Sáng tạo lớn lao nhất của cư dân thời kỳ Phùng Nguyên là sự ra đời của kỹ thuật đúc đồng. Dù các di chỉ khai quật thu được không có nhiều, chỉ là những cục xỉ đồng, nhưng khi phân tích kết quả thì đây là đồng thau (gồm đồng và thiếc) chứ không phải đồng đỏ. Điều này có thể khẳng định rằng kỹ thuật đúc đồng đã có từ thời Văn hóa Phùng Nguyên.
Tuy vậy, kỹ thuật luyện kim còn hạn chế. Cho đến nay vẫn chưa thấy đồ đồng Phùng Nguyên nào còn nguyên chiếc, chứng tỏ đồ đồng còn rất khan hiếm. Đồ đá vẫn là công cụ phổ biến trong sản xuất và đời sống.
Đồ đá
Trong số hiện vật được khai quật từ các di chỉ, khu mộ táng, xưởng sản xuất… thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, có đến 92% số lượng hiện vật chế tác bằng đá, minh chứng đây là chất liệu chủ đạo gắn liền với đời sống của các bộ tộc người Phùng Nguyên xưa.
Các bộ lạc Phùng Nguyên đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật làm đồ đá mà con người ở các giai đoạn trước hay sau văn hóa này đều không thể vượt qua. Công cụ và đồ trang sức đều được mài nhẵn. Kỹ thuật chưa phổ biến làm cho con người có thể tạo ra các vật phẩm bằng đá có hình dạng chính xác và tiết kiệm nguyên liệu, nhưng họ biết khoan lỗ và khoan tách lõi. Đặc biệt là người Phùng Nguyên biết tiện đá. Những đường gờ nhỏ song song, trông như những đường ren trên các vòng trang sức chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó.
Công cụ đá tìm thấy nhiều nhất trong các di chỉ là rìu và bôn có thiết diện tứ giác. Bôn nhiều hơn rìu. Loại bôn hay rìu có kích thước nhỏ phổ biến. Chúng hẳn không phải là những công cụ chặt, mà có chức năng như những con dao nhỏ dùng để làm đồ xương, đồ gỗ, và có thể là dùng để nạo mặt gốm, khắc rãnh đồ gốm. Trong các di chỉ Phùng Nguyên, những chiếc rìu có vai trò rất hiếm.
Trong số công cụ sản xuất của Văn hóa Phùng Nguyên, ngoài rìu và bôn ra, còn phải kể số lượng lớn đục đá. Đục đá Phùng Nguyên có đặc điểm nhỏ nhắn cũng như rìu và bôn, được chế tác từ các loại đá mịn hạt, độ cứng dáng kể như spilite, nephlite, và có những màu sắc đẹp. Loại hình của đục cũng đa dạng, có thể phân chia thành các loại chính sau: Đục bằng, đục mảnh vòng, đục nhọn, đục vũm và đột. (luocsutocviet.com)
Đục bằng có số lượng nhiều nhất, có lưỡi bằng, lưỡi mài vát một hoặc cả 2 mặt giống đục sắt hiện nay. Đụa bằng có chiếc khá dày, có chiếc khá mỏng. Đục bằng có thân dài, hẹp ngang, mặt cắt ngang là hình thang, chữ nhật, hình vuông hay hình thấu kính. Kích thước của loại đục này rất khác nhau: dài từ 3-4cm, rộng 1-3cm, dày 1-3cm. Chiếc đục phát hiện được ở Xóm Rền xứng đáng được xếp vào loại đục dày, dài và dày nhất của Văn hóa Phùng Nguyên.
Đục được làm bằng đá spilite màu xám, có quy mô kích thước khá lớn: dài 13 cm, rộng 3,5 cm, dày 2,5 cm, mặt cắt ngang hình chữ nhật. Khác với đục dày, đục mỏng có lưỡi mài vát 2 hoặc 1 mặt, mặt cắt ngang chủ yếu là hình thang, chữ nhật cũng đủ kích cỡ từ lớn đến nhỏ. Kích thước loại đục này tập trung trong khoảng: dài từ 3 đến 10 cm, rộng từ 1-1,5 cm, dày từ 0,5-0,8 cm. Loại đục này thường được làm bằng đá nephrite rất đẹp. Rõ ràng, loại đục dày cũng như đục mỏng có đủ các loại kích thước từ dài đến ngắn, từ rộngđến hẹp, từ dày đến mỏng. Như vậy với bộ đục gồm nhiều kiểy loại này, người thợ thủ công có thể dễ dàng đục, khoét các lỗ vuông, chữ nhật, hình tam giác hay hình thang trên các vật liệu tre gỗ để là khung nhà cửa…
Đục móng (hay còn được gọi là đục vũm) là một loại đục chuyên dụng để đục khoét các lỗ tròn giống như đục móng của người thợ mộc ngày nay. Đục móng thường có số lượng ít hơn các loại đục trên nhưng cũng khá phổ biến ở nhiều di tích Phùng Nguyên, như Phùng Nguyên, Chùa Gio, Văn Điển, Đồng Vông…
Đục mảnh vòng được làm bằng đá nephrite với các màu sắc khác nhau, như trắng ngà, hồng nhạt, hay tím mận chín. Đây là công cụ do người Phùng Nguyên khéo léo tận dụng những mảnh vòng gãy, rộng bản (từ 1-2cm) đem mài chế thành những đục nhỏ xinh xắn. Gọi là đục nhưng chưa chắc nó được sử dụng như những đục đá thực thụ. Bởi vì nó nhỏ và mỏng manh có khi lại cong nên rất có thể đục mảnh vòng còn được sử dụng như dao để cắt, gọt, rạch, khắc.
Đục nhọn hay đục đinh được làm từ mảnh đá, mảnh tước hay mảnh công cụ vỡ. Đục thường được làm bằng đá nephrite hay spilite. Tuy nhiên loại công cụ này không có nhiều lắm trong các di tích Phùng Nguyên.
Đột có mặt trong các di tích Phùng Nguyên không nhiều, được làm bằng đá Nephrite, có mặt cắt ngang hình bầu dục, một đầu lớn, một đầu nhỏ, đầu nhỏ được mài nhỏ dần thành hình tròn. Nhìn chung nó có dạng giống đột sắt hiện nay. Như vậy đục gồm nhiều loại khác nhau, được làm bằng đá Nephrite hay Sphilite, có mặt cắt khác nhau (hình thang, hình vuông hình chữ nhật…) có kích thước từ 3-10cm, rộng 1-2 cm, dày từ 1-5cm. Để tiết kiệm nguyên liệu và công sức, người Phùng Nguyên đã tận dụng các mảnh vòng gãy, mảnh công cụ vỡ để làm công cụ.
Độc đáo nhất trong các loại hình đồ đá được phát hiện được trong Văn hóa Phùng Nguyên phải nói tới đó là nha chương. Có nhiều ý kiến tranh cãi về công dụng của nha chương. Có nhà nghiên cứu cho rằng với hình dáng mỏng dẹt chỉ khoảng 0,5-0,8 cm chỉ đánh rơi cũng vỡ, không thể dùng làm vũ khí được mà đó chỉ có thể là vật sử dụng trong nghi lễ, lễ khí. Đa số các nhà nghiên cứu cũng nghiêng về ý kiến cho rằng nha chương có công dụng giống như chiếc quyền trượng hay lệnh bài biểu trưng cho quyền lực của vị thủ lĩnh dùng để điều binh khiển tướng. Ở nước Việt, nha chương ngoài ý nghĩa là biểu trưng cho quyền lực của vị thủ lĩnh nó còn là báu vật của một bộ lạc tồn tại ở giai đoạn đầu của nền Văn hóa Phùng Nguyên.
Nha chương là một loại hình hiện vật rất độc đáo được người Phùng Nguyên chế tác bằng kỹ thuật ghè, đẽo, khoan, cưa tạo các rãnh nhỏ đối xứng nhau, tạo các lỗ thủng xuyên tâm rất tinh xảo; bên cạnh đó là kỹ thuật mài nhẵn, bóng, mài vát hình chữ V, hình đuôi cá đạt trình độ thẩm mỹ cao. Việc chọn chất liệu đá ngọc và sử dụng kỹ thuật chế tác đá tương thích để làm nên nét độc đáo của chiếc nha chương càng chứng tỏ sự phát triển đỉnh cao của cư dân Phùng Nguyên trong việc chế tác đá.
Đá trang sức

Theo GS-TS Hoàng Xuân Chinh: “Đá trang sức Văn hóa Phùng Nguyên đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật ở mọi thời đại.”
Dựa trên các hiện vật khảo cổ và từ các nhà sưu tầm ở Việt Nam, hầu hết đồ trang sức dùng chất liệu đá bán quý như thạch anh, ngọc lam, ngọc thạch, ngọc bích… và có điểm chung là được chế tác với kỹ thuật cực kỳ tinh xảo. Trang sức Phùng Nguyên có kiểu dáng đa dạng, gồm chuỗi hạt, vòng đeo tay, khuyên tai, mặt ngọc… Khảo cổ Việt Nam xác định được những công xưởng chế tác trang sức với các hiện vật tìm được là mũi khoan, đá mài, bàn mài… để tạo nên các hiện vật được mài chuốt cầu kỳ, khoan cắt, tạo hình tinh tế bằng những đường cong hình học, những lối khoan tách lõi, khoan hai đầu được ứng dụng khéo léo lên mặt đá hình thành nên những tác phẩm nữ trang mà với khoa học kỹ thuật ngày nay không dễ thực hiện được.
Nông nghiệp
Văn hóa Phùng Nguyên có nền tảng lúa nước. Với việc tìm thấy một số hạt gạo cháy trong tầng văn hóa sớm nhất của di chỉ Đồng Đậu thuộc Văn hóa Phùng Nguyên, dựa vào công cụ đá và đồ đựng gốm, có thể cho rằng người Phùng Nguyên đã biết đến nông nghiệp trồng lúa nước.
Những di chỉ khảo cổ thu thập được trên địa bàn Hà Nội như Quần Ngựa, Công viên Thống Nhất, Văn Điển, Đàn Xã tắc… phần nào gợi mở những dấu ấn đầu tiên về sự hình thành và phát triển của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thời kỳ Văn hóa Phùng Nguyên. Qua các tầng văn hóa với số lượng lớn rìu bôn mà các cuộc khai quật khảo cổ học tìm thấy, chứng tỏ thời bấy giờ cư dân Hà Nội đã có một cuộc sống tương đối ổn định lâu dài để sản xuất nông nghiệp.
Rìu bôn là công cụ tương đối phổ biến thời kỳ này, được dùng để chặt cây, khai hoang diện tích trồng lúa và lương thực. Tại khu di tích Văn Điển đã khai quật được 228 rìu bôn, ở Đồng Vông là 107 chiếc. Cũng theo kết quả khai quật ở khu di tích Xuân Kiều với những dấu tích về những cục than có nhiều hạt lúa bị cháy, hay những hình vỏ trấu trên những trạc gốm phát hiện ở di tích Đồng Vông cho thấy cư dân Văn hóa Phùng Nguyên đã phát triển nghề trồng lúa nước tương đối phổ biến. Bên cạnh việc trồng lúa cư dân thời kỳ này còn trồng cây ăn quả và lấy hạt. Trong một số kết quả khai quật khảo cổ học đã tìm thấy các loại hạt như trám, mận, đỗ (đậu)…
Cùng với trồng trọt, chăn nuôi thời kỳ này cũng đã xuất hiện. Kết quả phân tích những xương răng động vật thu được trong các di tích Văn Điển, Đồng Vông, Núi Xây trên địa bàn Hà Nội đều cho thấy đây là những động vật do con người thuần dưỡng, và có những động vật sống trong rừng và dưới nước, cùng với những tượng trâu bò, gà bằng đất nung. Điều đó cho thấy thời kỳ này, những động vật như trâu, bò, gà đã là những con vật gần gũi được nuôi dưỡng trong nhà. Qua đây có thể thấy thời kỳ Văn hóa Phùng Nguyên, trên địa bàn Hà Nội đã có một nền nông nghiệp tổng hợp tương đối ổn định bao gồm trồng lúa nước, trồng cây ăn quả và chăn nuôi…
Hiện vật thuộc Văn hóa Phùng Nguyên
Bảo vật Quốc gia: Bình gốm Đầu Rằm thuộc Văn hóa Phùng Nguyên thế kỷ 14–10 tCN
Bình gốm Đầu Rằm được phát hiện vào tháng 1-1998. Trong một lần đi khai thác đá, ông Trần Quang Thủy, thợ đập đá ở thôn 1, Xã Hoàng Tân, Huyện Yên Hưng, nay là Thị xã Quảng Yên, phát hiện chiếc bình gốm trong một hốc đá của Núi Đầu Rằm Lớn, gần kề với Núi Đầu Rằm Nhỏ. Ông Thủy cất giữ chiếc bình gốm ở nhà.
Đến năm 1998, khi cùng chuyên gia của Viện Khảo cổ học nghiên cứu di tích Đầu Rằm, một nhân viên của Bảo tàng Quảng Ninh phát hiện chiếc bình gốm ở nhà ông Thủy và sưu tầm. Từ đó, bình gốm được lưu giữ tại Bảo tàng Quảng Ninh với tên gọi đặt theo tên nơi phát hiện.
Bình gốm Đầu Rằm nặng 1 kg, cao 25,3 cm, chia làm ba phần: miệng đường kính 6,5 cm, vai bình cao 2,3 cm; thân bình cao 16,2 cm; chân đế bình hình vuông với kích thước mỗi cạnh 6,8 cm. Niên đại: 3400–3000 năm cách ngày nay (dsvh.gov.vn), tức thế kỷ 14–10 tCN.
Chiếc bình gốm còn tương đối nguyên vẹn, chỉ bị sứt, vỡ một phần miệng và chân đế, đều là những phần không có hoa văn. Toàn bộ thân bình màu đỏ sẫm, giữ nguyên dáng và hoa văn trang trí.
Theo các nhà nghiên cứu, xương gốm màu xám đen, được làm bằng đất sét mịn nhào kỹ, trộn với vụn vỏ nhuyễn thể. Do đất và vỏ nhuyễn thể được trộn đều với tỷ lệ phù hợp nên thân bình gốm gần như không bị nứt, vênh méo.

Áo gốm mỏng, màu đỏ sẫm (ảnh cho màu khác có lẽ do cách chiếu sáng), khác hẳn với xương gốm màu xám-đen. Áo gốm bằng đất sét mịn, pha với bột thổ hoàng, sau đó được nghiền và lọc kỹ, phủ đều trên bề mặt bằng kỹ thuật nhúng nên tạo ra một lớp áo mỏng đều.
Các nhà nghiên cứu cho rằng bình gốm được nung ngoài trời, không có lò cố định. Thợ xếp phôi gốm xen lẫn nguyên liệu và đốt. Nhiên liệu thường là củi gỗ nhỏ, khi cháy cho nhiệt độ cao khoảng 700-800 độ C nhưng nhanh tàn. Do không có buồng lò nên nhiệt độ nung không đều tạo ra những mảng màu khác nhau trên bình gốm. Đây là kiểu nung phổ biến trong thời tiền sơ sử.
Cổ nhân Đầu Rằm dùng nhiều kỹ thuật để tạo dáng cho chiếc bình như dải cuộn, tức là xương gốm sau khi nhào luyện được nặn thành dải tròn, dài, chắp vào thành hình, sau đó được vuốt, chải, tạo dáng thành thân bình. Để thực hiện kỹ thuật này, thợ thủ công phải đi vòng quanh bình gốm. Mặt trong của bình gốm còn rõ những dấu vết của kỹ thuật dải cuộn.
Chân đế của bình gốm có hình tròn ở trên (để gắn vào thân bình hình tròn), hình vuông ở bên dưới, gồm 4 mặt có tiết diện hình thang. Nó được tạo bằng cách dùng bàn đập, đập từng mảnh, sau đó gắn vào nhau tạo thành một chân đế trên tròn, bên dưới loe vuông ra.
Ngoài ra, người xưa còn dùng kỹ thuật gắn chắp để làm bình. Toàn bộ bình gốm được chia thành 3 phần: miệng và vai bình, thân bình, chân đế. Ba phần này được làm riêng, sau đó được gắn chắp với nhau. Để các phần nối với nhau được chắc chắn, thợ gốm đã đắp thêm một đường chỉ nối cao khoảng 0,5 cm đè lên mối ghép. Đường chỉ này đồng thời tạo thành vai bình gốm.
Vết gắn ở phần thân và chân đế được chế tác theo kiểu nối giáp. Sau khi gắn, thợ thủ công đã miết kỹ lên mối ghép và dùng quy để ấn vào mối ghép. Kỹ thuật này vừa tạo hoa văn vạch chéo vừa làm cho cứng mối ghép. Có thể nói kỹ thuật gắn chắp bình gốm đã đạt đến trình độ cao nên mối ghép khó bị phát hiện, tạo ra được cảm giác như bình được chế tác liền khối.
Bình gốm Đầu Rằm dáng giống một chiếc gùi tre, được trang trí nhiều loại hoa văn và bố cục chặt chẽ. Thân bình, chân đế được chia thành bốn mặt, phản ánh sự nhận thức của con người về mặt đất. Đây là một bước quan trọng để tiến tới nhận thức về phương hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.
Phần miệng và vai bình hình tròn, có các hoa văn đường chỉ tròn, trên vai bình trang trí hoa văn sinh thực khí âm. Phần này còn có ý nghĩa tâm linh, tôn thờ tính nữ (âm – mặt trăng), mong muốn sự sinh sôi, nảy nở của con người.
Phần thân bình trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn đắp thêm và hình chữ S. Trong đó chủ đạo là hoa văn hình chữ S đứng. Phần này tôn thờ thiên nhiên như mặt trăng, mặt trời, sấm chớp, mưa gió…
Theo ông Kiều Đinh Sơn, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh, bình gốm Đầu Rằm là vật dụng cao quý, được sử dụng trong các nghi lễ như bát bồng và thố của người Phùng Nguyên vùng đất tổ, của cư dân thời đại kim khí ở Đầu Rằm.
Cho đến nay, trong hàng trăm di tích thời đại tiền sơ sử ở miền Bắc Việt Nam, vẫn chưa có một di tích nào phát hiện được bình gốm như bình Đầu Rằm. (Minh Cương, 2020)
Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Quảng Ninh.
Bảo vật Quốc gia: Sưu tập nha chương thuộc Văn hóa Phùng Nguyên thế kỷ 15 tCN
Nhắc đến hiện vật thời đại Hùng Vương và giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên ở Phú Thọ không thể không nhắc tới một báu vật đặc biệt, đó là những chiếc nha chương – một minh chứng quan trọng trong việc nghiên cứu sự ra đời và phát triển của thời đại Hùng Vương ở Phú Thọ – vùng đất cội nguồn của dân tộc Việt.

Các hiện vật nha chương được làm bằng đá ngọc với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo, có hình dạng khá đặc biệt. Theo các nhà nghiên cứu, nha chương là một vật dùng trong nghi lễ.
Nha chương Phùng Nguyên có nguồn gốc từ vùng Dương Tử, với văn hóa Thạch Gia Hà. Người Việt thời văn hóa Phùng Nguyên có nguồn gốc từ vùng Dương Tử, di cư về Việt Nam khoảng 4000 năm trước theo các nghiên cứu di truyền, khi di cư về Việt Nam, họ đã đem theo kỹ thuật chế tác ngọc và nha chương, theo đó nha chương Phùng Nguyên được kế thừa từ vùng Dương Tử.
Vai trò và chức năng của nha chương
Những tài liệu lịch sử và tài liệu khảo cổ cung cấp cho chúng ta những thông tin quan trọng để có thể xác định vai trò của những chiếc nha chương trong văn hóa Á Đông.
Nha chương với chức năng chính trị: Đoạn ghi chép trong Chu Lễ cho chúng ta thấy được chức năng điều động và tổ chức quân đội của các quốc gia có tồn tại nha chương: “Nha chương dùng để điều động quân đội, chỉ huy quân đồn trú”.
Ý kiến này được một số học giả Trung Quốc đề xuất. Theo đó, nha chương là một công cụ nghi lễ tượng trưng được nhóm cai trị dùng để kiểm soát lãnh thổ trong quốc gia của họ. Tức là nha chương được dùng như một công cụ công nhận hoặc một biểu tượng xác định mối quan hệ giữa các vùng lãnh thổ và chính quyền trung ương. Như vậy, nha chương biểu tượng cho quyền lực trong chế độ chính trị, ở đây có khả năng là chế độ phong kiến phân quyền phổ biến trong vùng Đông Á trước khi xuất hiện chế độ tập quyền.
Ở Việt Nam cũng vậy: nha chương tương ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vương. Sau khi người Việt di cư từ vùng Dương Tử xuống, quyền lực nhà nước thể hiện trong văn hóa Thạch Gia Hà cũng dịch chuyển về Việt Nam. Như vậy, nha chương chính là một yếu tố thể hiện quyền lực nhà nước quan trọng trong thời kỳ Hùng Vương.
Nha chương với chức năng lễ khí: Những tài lịch sử và khảo cổ về văn hóa Tam Tinh Đôi cũng cho chúng ta thấy có lẽ nha chương được dùng như một vật lễ khí trong những dịp tế lễ. Văn hóa Tam Tinh Đôi có đặc trưng quan trọng, đó là chú trọng vào việc tế lễ. Tượng người quỳ cầm nha chương cho thấy hình ảnh về việc tế lễ.
Nơi lưu giữ hiện vật: Bảo tàng Hùng Vương, Tỉnh Phú Thọ.
Nồi đất nung thuộc Văn hóa Phùng Nguyên
Chiếc nồi đất nung thuộc Văn hóa Phùng Nguyên này là một hiện vật hiếm hoi so với niên đại rất cổ. Nồi có đường kính 12 cm, cao 10 cm, tức là nhỏ như một chiếc tô.

Nơi lưu giữ hiện vật: không rõ, đã được bán với giá 1800 euro.
Thố đất nung thuộc Văn hóa Phùng Nguyên
Thố (hay bình hình lẵng hoa) là loại hình di vật đặc biệt trong đồ gốm thuộc Văn hóa Phùng Nguyên. Thố có dáng hình trụ tròn, loe xiên từ phần đáy lên phần miệng. Mép miệng bẻ khum vào trong hoặc cắt vát hơi xiên. Nhà nghiên cứu Hán Văn Khẩn nhận định: “Thố là dạng đồ gốm đẹp nhất, tiêu biểu nhất và độc đáo nhất của Văn hóa Phùng Nguyên” (vanhoanghethuat.vn).
Chiếc thố đất nung này cao 20 cm, đường kính miệng 24 cm, đường kính đáy 16 cm, được phát hiện năm 2002 tại di chỉ Xóm Rền, Phú Thọ.

Nguồn Sưu tầm