Theo các kết quả nghiên cứu, niên đại của Văn hóa Hòa Bình khoảng 16.000–5500 tCN, thuộc thời Đồ đá cũ. Các di chỉ được tìm thấy và khai quật ở Hòa Bình có khung niên đại 10.000-9.000 tCN.
Các bộ lạc Hòa Bình phân bố rộng rãi ở vùng núi Tây Bắc, trong các tỉnh Sơn La, Lai Châu, ở vùng núi đá vôi Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Huế. Văn hóa Hòa Bình không chỉ tồn tại trên đất nước Việt Nam mà còn phân bố rất rộng ở khu vực Đông Nam Á. Nhưng không ở đâu Văn hóa Hòa Bình phân bố dày đặc và phong phú như ở Việt Nam vốn được nhiều nhà khoa học nước ngoài xem là quê hương của Văn hóa Hòa Bình.

Văn hóa Hòa Bình được xác định là gạch nối giữa thời đại Đá cũ (Văn hóa Sơn Vi, Phú Thọ) và thời đại Đá mới (Văn hóa Bắc Sơn, Lạng Sơn). Ý nghĩa và tầm quan trọng của Văn hóa Hòa Bình không chỉ minh chứng khẳng định Việt Nam là một trong những chiếc nôi của của loài người, mà còn cung cấp cho các nhà khảo cổ, các nhà khoa học trong nước và quốc tế những cứ liệu khoa học về quá trình chuyển hóa từ người vượn tiền sử tiến lên người hiện đại, về phương thức kiếm sống về canh tác, về tổ chức xã hội.
Tại Việt Nam, hiện có trên 130 địa điểm thuộc nền Văn hóa Hòa Bình, trong đó trên một nửa do các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện trong khoảng thời gian 1966–1980. Riêng Hòa Bình có 72 di chỉ đã được phát hiện và nghiên cứu.
Các di chỉ chủ yếu tập trung vùng núi đá vôi tại các thung lũng hoặc các hang động, núi đá.
Vào khoảng những thập niên 1920s–1930s, công cuộc khai thác thuộc địa tạo điều kiện cho các nhà địa chất và khảo cổ Pháp phát hiện hàng loạt di tích tiền sử, trong đó tiêu biểu nhất là Văn hóa Hòa Bình gắn với tên tuổi Tiến sĩ Khảo cổ học người Pháp Madelain Colani (1866–1943). Từ năm 1927, bà Colani điều tra thăm dò khảo cổ học ở vùng hang động đá vôi kéo dài từ Hòa Bình qua Thanh Hóa đến Quảng Bình.
Ngay từ đầu, phát hiện tàn tích tiền sử dày đặc ở Hòa Bình giúp bà Colani nhận ra sự tồn tại một nền văn hóa săn bắt, hái lượm với tầng văn hóa ken dày vỏ ốc suối, ốc núi, xương răng động vật, tầng bếp cháy và công cụ ghè đẽo từ cuội suối basalt rất phổ biến trong vùng.
Năm 1932, bà Colani chính thức công bố sự tồn tại một nền văn hóa tiền sử quan trọng của loài người có tính phổ cập ở một vùng rộng lớn khắp vùng Bắc Đông Dương và ngoại vi – đó là Văn hóa Hòa Bình. Đề xuất của bà được toàn thể hội nghị các nhà tiền sử Viễn Đông tán thưởng. Từ đó, thuật ngữ Hoabinhien hoặc Hoabinhian xuất hiện trên báo chí, công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, từ điển… song hành với các nền văn hóa tiền sử nổi tiếng khác trên thế giới.
Bà Colani mở rộng nghiên cứu sang vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An, Lào và hình thành ý tưởng khoa học về một nền văn hóa khảo cổ tiền sử quan trọng có tính bao trùm cả khu vực mà cái lõi chính là các thung lũng xung quanh sơn khối Kim Bôi, nơi có đỉnh Cốt Ca, được coi như nguồn nguyên liệu basalt sừng hóa vô tận của người tiền sử Hòa Bình.
Người của nền văn hóa Hòa Bình thường sống trong các hang núi hay mái đá. Họ thích sống ở khu vực gần cửa hang, thoáng đãng, có ánh sáng. Đôi khi cũng tìm thấy dấu vết của họ trong những ngách tối. Họ thường chọn những hang thấp gần sông suối, nhưng các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy dấu vết của họ trong những hang đá rất cao trên núi.
Cư dân văn hóa Hòa Bình bắt ốc suối hay ốc núi về ăn rồi vứt vỏ làm thành lớp, đôi khi rất dày, trong nơi cư trú của họ. Loại ốc vặn ở suối (Melania, Antimelania, Angulyara) rất được người Hòa Bình ưa thích. Ở những vùng ít ốc suối như ở vùng đá vôi khu vực Chùa Hương (thuộc Mỹ Đức, Hà Nội) thì ốc núi (Cyclophorus) lại là thức ăn thường xuyên của họ. Trong lớp vỏ ốc lẫn đất, người ta thường gặp nhiều xương các thú rừng như hươu nai, hoẵng, lợn, khỉ, cầy, cáo, nhím… Đôi khi cũng gặp xương và răng các loài thú lớn như voi, tê giác, trâu bò rừng. Đó là những động vật mà người nguyên thủy đã săn được. Các mảnh xương thú vỡ nát là di tích cho những bữa ăn của họ. Người nguyên thủy đập nát xương để hút tủy sau khi ăn thịt. Trong hang, thường gặp những hòn đá bị cháy đỏ hoặc ám khói nằm giữa đám than tro, đó là bếp của họ. Nhiều mảnh xương thú bị cháy do người ta nướng thịt trên lửa. Bấy giờ chưa có đồ gốm. Có lẽ người nguyên thủy đã biết nấu thức ăn trong ống tre, ống bương hay trong vỏ quả bầu.
Trong các hang động và mái đá mà cư dân Văn hóa Hòa Bình đã ở, còn tìm thấy những công cụ bằng đá của họ. Cũng giống như Văn hóa Sơn Vi, công cụ Văn hóa Hòa Bình đều làm bằng đá cuội. Nhưng công cụ Hòa Bình đã tiến bộ hơn công cụ Sơn Vi rất nhiều. Nếu như chủ nhân Văn hóa Sơn Vi chỉ ghè đẽo ở rìa viền cuội, giữ lại cả hai mặt vỏ cuội thì chủ nhân nền Văn hóa Hòa Bình đã ghè đẽo rộng lên cả mặt viên cuội. Họ thường ghè đẽo một mặt viên cuội còn một mặt để nguyên. Có thể coi công cụ ghè đẽo một mặt viên đá cuội còn một mặt để nguyên vỏ cuội là đặc trưng của Văn hóa Hòa Bình.
Một loại công cụ khá phổ biến, điển hình cho văn hóa này là những hòn đá cuội ghè một mặt hình đĩa, hình bầu dục hay hình hạnh nhân, thường được các nhà khảo cổ học gọi là công cụ kiểu Sumatralith, lấy tên từ hòn đảo nơi tìm thấy kiểu công cụ này đầu tiên. Cũng có những công cụ được ghè đẽo trên cả hai mặt. Tất cả những công cụ đó đều có lưỡi ở chung quanh theo rìa viên cuội, có thể dùng để cắt, chặt hay nạo. Các nhà khảo cổ học còn tìm ra được những chiếc rùi bằng đá cuội có lưỡi ở một đầu. Đặc biệt là có loại rùi có bề ngang lớn hơn bề dọc, gọi là rùi ngắn.
Trong các địa điểm Văn hóa Hòa Bình, cũng thường gặp nhiều chày nghiền, đó là những viên cuội dài, do nghiền hạt, bị mài phẳng một đầu hay cả hai đầu. Ngoài ra, trong các hang động Hòa Bình thường gặp một số công cụ thô sơ kiểu Sơn Vi, đó là tàn dư một kỹ thuật cũ, đồng thời cũng nói lên rằng Văn hóa Hòa Bình bắt nguồn từ Văn hóa Sơn Vi. (lichsu.org)

Cư dân Văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu dựa vào các mái đá hay cửa hang động và để lại những bếp lửa liên tục hàng ngàn năm và những vệt mòn đi lại ở cửa hang. Thời kỳ thịnh đạt của nền văn hóa này trùng với thời kỳ băng hà cuối cùng trên thế giới, tạo ra dạng khí hậu ở Đông Nam Á với nhiệt độ trung bình thấp hơn ngày nay chừng 5-7 độ C. Mưa nhiều, thảm thực vật sồi, dẻ chiếm ưu thế khiến dân cư Hòa Bình có điều kiện tăng trưởng, mở rộng sang các vùng rừng núi phụ cận.
Nguồn Sưu tầm