Văn hóa Đa Bút là một nền văn hóa ở Sơ kỳ thời đại Đồ đá mới có niên đại sau các nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, 4000-3000 tCN. Không gian của Văn hóa Đa Bút là dải đất nằm từ hữu ngạn Sông Đáy đến tả ngạn Sông Mã thuộc các tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa ngày nay. Tính đến năm 2010, đã có hơn 10 điểm văn hóa Đa Bút được phát hiện và khai quật. Các bộ lạc chủ nhân của Văn hóa Đa Bút tạo ra Văn hóa Đông Sơn.
Đa Bút là đặt theo tên một thôn ở Huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, nơi đầu tiên tìm được những di vật của nền văn hóa này. Sau những phát hiện và khai quật Cồn Cổ Ngựa, Cồn Trũng, Bản Thủy, Làng Còng (Thanh Hóa) và Hang Sáo, Đồng Vươn (Ninh Bình), nhận thức về địa bàn phân bố và môi trường của Văn hóa Đa Bút trải rộng trên mặt không gian từ vùng núi đến vùng đồng bằng ven biển với nhiều loại hình di tích khác nhau cho thấy môi trường văn hóa đa dạng của Văn hóa Đa Bút.
Thành tựu quan trọng của 80 năm phát hiện và nghiên cứu đã nhận ra những đặc trưng cơ bản của Văn hóa Đa Bút: “Sự nảy sinh của đồ gốm đồng thời với sự hoàn thiện kỹ thuật mài là hai nét đặc trưng quan trọng nhất tạo nên bộ mặt của Văn hóa Đa Bút” (Trần Quốc Vượng).
Người Đa Bút dùng khuôn đan để chế tạo đồ gốm. Đồ gốm Đa Bút được tạo bằng kỹ thuật nặn khối, sử dụng hòn kê, bàn đập. Đồ gốm Đa Bút đến giai đoạn cuối có sự phát triển về thể loại hình kỹ thuật, hoa văn, độ nung gốm cao hơn, các loại văn hoa và kiểu dáng. Sự có mặt các loại đồ gốm mỏng, văn hoa đa dạng, sương gốm mịn hơn được xem là sự phát triển của kỹ thuật chế tạo đồ gốm. Đồ gốm Đa Bút được xem là yếu tố văn hóa nổi trội mang tính riêng biệt của chủ nhân Văn hóa Đa Bút. Đặt đồ gốm Đa Bút trong nền cảnh thời đại mới ở Việt Nam có thể xem gốm Đa Bút là tập hợp sớm nhất. Địa bàn phân bố của Đa Bút được xem là trung tâm văn hóa đồ gốm sớm ở Việt Nam. Tuy nhiên, vào những năm sau 2010, khi khai quật các di chỉ khảo cổ học ở quần thể di sản thế giới Tràng An, các nhà khảo cổ tìm thấy trong các hang động nhiều vật dụng gốm, được xác định là ra đời sớm nhất Việt Nam, có niên đại khoảng 9000 năm, thuộc Văn hóa Tràng An.
Kỹ thuật chế tác công cụ đá của chủ nhân Văn hóa Đa Bút có sự phát triển và hướng tới sự hoàn chỉnh. Từ hai loại nguyên liệu được khai thác tại chỗ: đá cuội và đá phiến, chủ nhân Văn hóa Đa Bút đã áp dụng kỹ thuật mài cưa để tạo ra những công cụ thích hợp, đem lại hiệu quả cao. Sự phát triển của kỹ thuật mài của đá cho phép cưa đá người Đa Bút chế tác được các loại rìu tứ giác khá hoàn chỉnh. Sưu tập đá của Văn hóa Đa Bút với các loại di vật tiêu biểu từ rìu mài lưới, mài toàn thân đến rìu tứ giác, rìu hình thanh được mài nhẵn, các loại cước đá to mài nhẵn đã cho ta thấy sự phát triển vượt trội của kỹ thuật chế tác các công cụ đá. Kiến thức ngày nay với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuât mới đã giúp cho các nhà khảo cổ học nhận thức đúng hơn về môi trường, đời sống của cư dân Đa Bút qua các tư liệu mới về văn hóa này.
Nếu ở Quỳnh Văn, điệp là loài thân mềm ở biển chủ yếu mà con người nguyên thủy bắt về ăn thì ở Đa Bút, hến lại là thức ăn chủ yếu của họ. Ngoài hến, còn có một số ốc nước ngọt như ốc nhồi, ốc vặn, ốc bươu, v.v… và một số trai, ngao nước ngọt.
Người nguyên thủy ở Đa Bút cũng là những người săn bắn: đã tìm thấy xương và răng của trâu, hươu, hoẵng, lợn rừng, cầy cáo, chim và chó. Có một số chim như bồ nông, gà rừng, sẻ, v.v… Cũng tìm thấy xương của các loài cá biển như cá trám, cá ó, cá đao, cá đuối. Như vậy, người nguyên thủy ở Đa Bút cũng là cư dân đánh cá. Hẳn là như các bộ lạc Quỳnh Văn, họ có thuyền ra biển.
Một nền nông nghiệp nguyên thủy có lẽ phát triển trong Văn hóa Đa Bút. Khi quan sát dưới kính hiển vi các công cụ mài lưỡi ở Đa Bút, một số nhà khảo cổ học nhận ra một số có vết xước dài ở rìa lưỡi chạy dọc theo trục thân. Những vết xước đó nói lên rằng những công cụ này là cuốc, chứ không phải là rìu. Người nguyên thủy ở Đa Bút có thể đã biết thuần dưỡng chó và bò.
Trong việc chế tạo công cụ, người nguyên thủy Đa Bút mặc dù đã có bước tiến bộ nhưng rõ ràng còn mang truyền thống Văn hóa Bắc Sơn. Công cụ ở đây được làm bằng cuội, khác xa công cụ Văn hóa Quỳnh Văn. Nhưng ở một số mặt, cư dân nguyên thủy Đa Bút lại gần với cư dân nguyên thủy Quỳnh Văn, bởi lẽ Đa Bút và Quỳnh Văn đều là những đồi vỏ loài thân mềm, chỉ khác ở chỗ Quỳnh Văn là đồi vỏ điệp còn Đa Bút là đồi vỏ hến.
Hoạt động kinh tế của người Đa Bút cũng gần giống với người Quỳnh Văn. Về tục chôn cất người chết, giữa người Đa Bút và người Quỳnh Văn cũng có nhiều điểm tương tự. Trong đồi vỏ hến của người Đa Bút trước đây các nhà khảo cổ tìm được 12 ngôi mộ. Cũng như ở Quỳnh Văn, người chết ở Đa Bút được chôn theo tư thế ngồi xổm, xương chân và xương tay gập lại. Xương đầu gối có khi giáp với xương tay và xương sọ. Người nguyên thủy Đa Bút cũng chôn theo người chết công cụ lao động và đồ trang sức. Họ cũng dùng vỏ ngao, vỏ trai xuyên lỗ để làm đồ trang sức như người Quỳnh Văn. Ở đây tìm được những đồ trang sức làm bằng vỏ ốc Cypraea đẹp, mài thủng lưng như ở trong văn hóa Bắc Sơn và Hòa Bình.