Những phát hiện đầu tiên về Văn hóa Bắc Sơn trên vùng đất Lạng Sơn đầu thế kỷ 20 gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Sở Địa chất Đông Dương dưới thời Pháp thuộc.
Năm 1898, Pháp thành lập Sở địa chất Đông Dương với nhiệm vụ chính là thăm dò, lập bản đồ địa chất tại ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia để phục vụ mục đích khai thác thuộc địa của họ, trong đó bao gồm cả nghiên cứu thời kỳ tiền sử. Năm 1914, một bảo tàng chuyên đề về địa chất được hoàn thành ngay trong khuôn viên của sở này để trưng bày các mẫu khoáng vật, thạch học, cổ sinh vật và tiền sử học. Henry Mansuy, nhà địa chất học người Pháp công tác ở đây, là một trong hai người được giao nhiệm vụ phụ trách, xây dựng bảo tàng. Chính vì vậy, năm 1906, ông đặt chân đến Lạng Sơn để nghiên cứu, khảo sát. Tại hang Thẩm Khoách (còn được gọi là Thẩm Khách hoặc hang phố Bình Gia), ông tìm được khá nhiều di vật đá khi tiến hành khai quật di chỉ này. Đáng chú ý ở đây có những chiếc rìu độc đáo chỉ mài hạn chế ở phần lưỡi, khác hẳn với các công cụ đá mài toàn phần đã biết của thời đại đá. Thẩm Khoách được khảo cổ học ghi nhận là địa điểm phát hiện di tích Văn hóa Bắc Sơn đầu tiên ở Việt Nam.
Những năm sau đó, H. Mansuy tiếp tục nghiên cứu, khảo sát, khai quật nhiều hang động trong lòng sơn khối đá vôi Bắc Sơn. Trong giai đoạn 1922–1925, ông và cộng sự đắc lực là bà Madeleine Colani tổ chức nhiều đợt khai quật khảo cổ học ở đây. M. Colani vốn là một giáo viên trung học người Pháp từng dạy học ở Phủ Lạng Thương (Bắc Giang), sau về làm tại Sở Địa chất Đông Dương. Bà cũng chính là người đã phát hiện, nghiên cứu nhiều văn hóa khảo cổ nổi tiếng khác ở Việt Nam như Văn hóa Hòa Bình và Văn hóa Hạ Long. Tại Lạng Sơn, bà đến nhiều nơi thuộc các huyện: Bắc Sơn, Văn Quan, Hữu Lũng khảo sát, khai quật khảo cổ. Những kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây được H. Mansuy hoặc cả hai người công bố thông qua các bài viết, hội nghị về tiền sử học. Trong đó nhấn mạnh sự tồn tại của một nền văn hóa sơ kỳ đá mới biệt lập với những đặc trưng riêng, độc đáo. Đó chính là Văn hóa Bắc Sơn.
Tính đến năm 1932, đã có 43 di tích Văn hóa Bắc Sơn do người Pháp phát hiện, nghiên cứu, trừ di tích Nà Con ở Cao Bằng, còn lại đều nằm trong sơn khối đá vôi Bắc Sơn, trong đó có 6 di tích ở vùng tiếp giáp với Lạng Sơn thuộc tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên, do hạn chế trong công bố tư liệu, đến nay, nhiều di chỉ vẫn chưa xác định được trên thực địa. Hiện vật thu thập tại các di chỉ khảo cổ này rất đa dạng, phong phú, bao gồm nhiều loại hình, nhiều thời kỳ khác nhau, đang được lưu giữ, trưng bày Bảo tàng lịch sử Quốc gia Việt Nam. Đó là những tư liệu quý giá ban đầu để nhận diện đặc trưng, xác lập Văn hóa Bắc Sơn.
Qua nghiên cứu đến nay, các nhà khảo cổ học xác định Văn hóa Bắc Sơn có niên đại khoảng 9000–4000 tCN, thuộc giai đoạn Sơ kỳ đá mới. Công cụ đặc trưng nhất của văn hóa này bao gồm rìu mài lưỡi (rìu Bắc Sơn), “dấu Bắc Sơn”, công cụ ghè đẽo định hình (hình bầu dục, hình chữ nhật, hình hạnh nhân, hình quạt, hình mu rùa…), gốm thô. Trong đó, rìu mài lưỡi và “dấu Bắc Sơn” được coi là những di vật có tính chất chỉ thị cho niên đại của văn hóa này. Bên cạnh đó còn có rất nhiều loại hình di vật khác như: Hòn ghè, bàn mài, công cụ mảnh tước, công cụ xương, đồ trang sức, đồ gốm, mộ táng, di cốt động vật, vỏ các loài nhuyễn thể… Đó là những cứ liệu quan trọng để phục dựng bức tranh về đời sống vật chất và tinh thần của cư dân văn hóa Bắc Sơn. Đánh giá về rìu mài lưỡi Bắc Sơn, các nhà khảo cổ học cho rằng, đó là chiếc rìu mài xuất hiện sớm nhất ở Châu Á, có ý nghĩa như một cuộc “cách mạng đá mới” tạo nên một bước tiến nhảy vọt trong quá trình chinh phục thiên nhiên, làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế, xã hội thời nguyên thủy.

Một trong những nguồn thức ăn phổ biến mà cư dân Văn hóa Bắc Sơn khai thác là các loài động vật hoang dã. Trong tầng văn hóa, một số di chỉ Bắc Sơn tìm thấy nhiều di cốt động vật: Họ Hươu (Cervidae), Họ Trâu bò (Bovidae), Họ Lợn (Suidae), Họ Cầy cáo (Viverridae), nhím (Hystricides), linh trưởng (Primates); vượn Hylobates concolor, khỉ Macaca assamensis, lửng Arctonyx collari; tê giác Rhinoceros sp., lợn rừng Sus scorofa, hươu Cervus sp., nai (Rusa unicolor), một số loài chim, thú khác; nhuyễn thể: loài ốc núi miệng tròn Cyclophorus, Hybocystis., ốc suối Antimelania sp., các loài trai, trùng trục, ngao, hến… sống trong các đầm hồ, sông, suối, ít loài sống trên cạn.
Ngày nay, các nhà khảo cổ học nhất quán cho rằng với tầm ảnh hưởng sâu rộng và sức lan tỏa mạnh mẽ, Văn hóa Bắc Sơn có nhiều đóng góp tích cực cho việc nảy sinh và định hình một số nền văn hóa đá mới ở miền núi và ven biển nước ta, trong đó có Văn hóa Mai Pha giai đoạn hậu kỳ đá mới. Có thể coi đó là một chặng đường quan trọng, đầy ấn tượng đến với thời kỳ Hùng Vương dựng nước. (baolangson.vn)
Nguồn sưu tầm