Tranh Dân Gian Việt Nam

Tranh dân gian Việt Nam 3 vùng miền

Nhắc đến hội họa dân gian Việt Nam không thể bỏ qua những tác phẩm tranh dân gian mang đậm bản sắc lịch sử văn hóa dân tộc. Trải qua hàng thế kỷ ra đời, phát triển, gắn liền với chiều dài lịch sử cả ba miền Bắc – Trung – Nam, Việt Nam sở hữu một kho tàng các loại tranh vẽ nổi bật khác nhau, gắn liền với từng thời kỳ, văn hóa vùng miền. Tiêu biểu nhất có 12 dòng tranh dân gian Việt Nam, từ những tranh cổ Việt Nam cho đến những tác phẩm lưu truyền đến ngày nay. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu lịch sử ra đời, đặc điểm và ý nghĩa của 12 dòng tranh dân gian Việt Nam nhé!

Linh vật trong tranh dân gian Kim Hoàng - Thế giới sách

“Tứ linh”- Tranh Kim Hoàng – Tranh dân gian Việt Nam

Khái quát lịch sử ra đời của tranh dân gian Việt Nam

Xét theo văn hóa tín ngưỡng, sự hình thành tranh dân gian Việt Nam đã có từ rất sớm, gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và dựa trên các vị thần truyền thuyết vốn được nhân hóa từ các hiện tượng thiên nhiên. Tranh dân gian được chia thành tranh Tết và tranh thờ, cả hai đã trở thành nhu cầu của nếp sống văn hoá, đóng góp vào kho tàng mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hoá truyền thống của Việt Nam.

Trong khi đó, với những đặc thù cơ bản về kỹ thuật chế tác các bản in từ các khuôn mẫu khắc tạc trên gỗ mà người ta cho rằng, sự ra đời và phát triển của tranh dân gian Việt Nam đã diễn ra từ rất lâu đời. Theo các nguồn sử liệu, do nhu cầu của việc in ấn và phổ cập các loại văn bản thiết yếu, đặc biệt là kinh Phật, kỹ thuật khắc ván để in đã xuất hiện ở Việt Nam từ hàng nghìn năm trước.

Vào thời Lý (1010 – 1225), do nhu cầu sắm sửa và sưu tầm tranh dân gian cho các dịp lễ Tết, thờ cúng nên đã hình thành nên gia đình chuyên làm nghề khắc ván, thậm chí là cả một làng chuyên làm khắc ván, làm tranh.

Ở thời Trần (1225 – 1400), chỉ bằng vào những dấu tích còn lại đến nay, cũng đủ thấy hội họa thời kỳ này phát triển rực rỡ. Nhiều tài liệu văn tự của thời Trần đã xác nhận sự có mặt của hội họa thời ấy. Nhiều hình chạm nổi và khắc chìm có niên đại Trần, hoặc có phong cách nghệ thuật Trần, đã gián tiếp và trực tiếp cho ta biết những yếu tố, những hình vẽ của nghệ thuật hội họa thời Trần. Những hình chạm nổi và hình khắc chìm trên các chất liệu gốm, gỗ và đá cho đến nay vẫn tồn tại tự thân thuộc về nghệ thuật chạm khắc, nhưng ở những hình có nhiều yếu tố hội họa thì hiệu quả nghệ thuật của nó lại gần với hiệu quả của tác phẩm hội họa, và với một kỹ thuật in riêng, thì hình chuyển sang giấy như tờ tranh đồ họa, có các nét tưởng như được vẽ bằng bút; Nó chứng tỏ sự phát triển của nghệ thuật hội họa thời kỳ này. Điển hình nhất là đến cuối thời Trần, người Việt Nam đã in được tiền giấy. Đây được xem là một hình thức khác của sự phát triển in ấn tranh trong lịch sử Việt Nam.

Xem thêm:Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào? Tóm tắt lịch sử nhà Trần

Đến thời Lê Sơ (1428 -1527), từ thế kỷ 15, người Việt lại tiếp thu và có cải tiến thêm một bước kĩ thuật khắc ván in của Trung Quốc, cũng từ đây, trong dòng chảy của tranh dân gian Việt Nam bắt đầu có sự phân hóa để ngày càng phát triển đậm nét.

Theo đà phát triển của nghề in, khắc gỗ ở Việt Nam, việc sản xuất tranh dân gian ngày càng mở rộng ở nhiều địa phương, hoặc tập trung thành từng làng nghề, hoặc do từng hộ in riêng, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ to lớn của cư dân khắp mọi miền của đất nước. Từ vài trăm năm trước, những trung tâm sản xuất tranh khắc gỗ dân gian nổi tiếng, được gọi theo địa danh hành chính, như: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây cũ), Nam Hoành (Nghệ An), Sình (Huế)… Nhìn chung, việc sản xuất các loại tranh dân gian tại các trung tâm nói trên đều dựa trên nguyên tắc cơ bản là in, nhưng mỗi nơi lại có những sắc thái và kỹ thuật riêng, tạo nên đặc trưng của mỗi trung tâm, mỗi làng nghề nghệ thuật dân gian đặc biệt này.

Dưới thời Mạc (thế kỷ 16), tranh dân gian phát triển khá mạnh, được cả các tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long sử dụng vào dịp Tết mà bài thơ Tứ thời khuê vịnh của nhà thơ đương thời Hoàng Sơ Khải đã xác nhận sự hiện diện của các loại tranh thờ, tranh gà và tranh Tố nữ:

“Chung Quỳ khéo vẽ nên hình

Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà

Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm

Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương”

Đến thế kỷ 18 – 19, tranh dân gian Việt Nam đã ổn định và phát triển cao. Bảo tàng Lịch Sử (Hà Nội) còn giữ được những ván khắc từ thời Minh Mạng thứ 4 (tức 1823). Cùng với đó là sự phân hóa, những dòng tranh mới xuất hiện với tên gọi theo địa bàn làm tranh dàn trải trong cả nước. Dựa theo phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên vật liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh gọi theo tên những địa danh sản xuất.

Đặc điểm tranh dân gian Việt Nam

Tranh dân gian Việt Nam dù có nhiều dòng tranh khác nhau. Mỗi dòng tranh có một phong cách riêng nhưng nhìn chung đều được dựng hình theo kiểu “đơn tuyến bình đồ”, tức lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu và bao lại toàn hình. Với lối dựng hình “thuận tay hay mắt”, các thành phần trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. Cách tạo màu cũng vậy, tất cả đều nhằm làm cho bức tranh thật dễ nhìn. Bố cục tranh được chia theo cách như sau: Thần thánh luôn được vẽ to ở giữa, phía trên, còn người bình thường thì sàn sàn nhau, con vật và cảnh sắc thì tuỳ tương quan mà vẽ to hay nhỏ để bức tranh gây ấn tượng sâu sắc.

Có rất nhiều dòng tranh dân gian đã từng xuất hiện tại Việt Nam. Có dòng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng tranh nhanh chóng biến mất. Tiêu biểu có thể kể đến 12 dòng tranh dân gian Việt Nam của cả 3 miền Bắc – Trung – Nam gồm:

  1. Tranh Đông Hồ (Bắc Ninh)
  2. Tranh Kim Hoàng (Hà Tây – Hà Nội ngày nay)
  3. Tranh Hàng Trống (Hà Nội)
  4. Tranh làng Sình (Huế)
  5. Tranh Thập vật (Bắc Bộ)
  6. Tranh Đồ thế (Trung và Nam Bộ)
  7. Tranh Kính Nam Bộ (Nam Bộ)
  8. Tranh Kính Huế (Huế)
  9. Tranh Thờ miền núi (Dân tộc thiểu số phía Bắc)
  10. Tranh Gói vải (Nam Bộ)
  11. Tranh Thờ đồng bằng
  12. Tranh Vải

Trong số 12 dòng tranh dân gian Việt Nam kể trên, có 4 dòng tranh được coi là và phát triển nhất bao gồm: tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, tranh Kim Hoàng và tranh Làng Sình.

Ngày nay, tranh dân gian đã bị tranh hiện đại lấn át, hầu hết đã thất truyền. Tuy nhiên, có một dòng tranh vẫn còn tồn tại trước những thử thách của thời gian, như tranh Đồng Hồ. Dòng tranh này không những có chỗ đứng ở trong nước mà nó đã và đang có mặt ở nhiều nước trên thế giới như Nhật, Pháp, Mỹ…

Một số tác phẩm nổi bật phải kể đến như Bịt mắt bắt dê, Hứng dừa, Đám cưới chuột, Đánh ghen, Phú quý, Nhân nghĩa

Giải mã “Đám cưới chuột”

“Đám cưới chuột” – Tranh Đông Hồ – Tranh dân gian Việt Nam

Tìm hiểu 12 dòng tranh dân gian Việt Nam tiêu biểu nhất

1. Tranh Đông Hồ

Trong số các dòng tranh dân gian Việt Nam, tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là một dòng tranh cổ, ra đời khoảng thế kỷ 16-17, phát triển mạnh đến nửa đầu thế kỷ 20.

Tranh Đông Hồ còn được gọi là “Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ” vì được chế tác bằng phương pháp in khắc thủ công, giấy vẽ làm từ vỏ con điệp trộn với hồ, tạo nên loại giấy trắng sáng, lấp lánh khi để ngoài ánh sáng.

Tranh Đông Hồ là loại tranh gì?

“Chọi trâu” – tranh dân gian Đông Hồ

Cách in ấn: Tranh Đông Hồ in màu trước, in nét sau. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu, mỗi màu dùng một bản, tờ tranh có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu ván in. Ván gỗ của tranh khắc bằng mũi đục gọi là “vẻ”, nét khắc/đục đậm nét, đứng cạnh và to đậm. In màu xong mới in nét viền quanh, làm ổn định hình trên tranh (ngoại lệ sau này cũng có tranh chỉ in nét còn màu phẩm tô bằng bút lông). Nhờ cách in này, tranh được sản xuất với số lượng lớn và không đòi hỏi nhiều kĩ năng cầu kỳ. Tuy nhiên, vì in trên ván gỗ một cách thủ công nên tranh bị hạn chế về kích thước, thông thường các cỡ tranh không quá 50cm mỗi chiều, in trên giấy dó dai bền, trên mặt phủ một lớp điệp tạo cho tờ giấy cứng xốp. Thường thì người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loài sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những vạch chạy theo đường quét, với bột vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng lấp lánh dưới ánh sáng. Chính vì vậy, giấy in tranh Đông Hồ thường gọi là giấy điệp.

Màu vẽ: Màu vẽ làm từ vật liệu tự nhiên với 4 màu cơ bản là xanh (lấy từ lá chàm hoặc gỉ đồng), đen (than lá tre) vàng (lấy từ hoa hòe) và màu đỏ (từ gỗ vang, sỏi son). Khi in tranh, các màu pha trộn với hồ nếp, quấy kỹ thành chất đặc quánh, gọi là “thuốc cái”. Thường khi mua tranh về, người dân không lồng kính đóng khung mà găm/dán thẳng lên mặt tường, cánh cửa, vách đất, liếp tre hay cổng nhà – đây là những nơi rất dễ gây cho tranh bị hư hại do tác động của thời tiết, khí hậu. Màu sắc trên tranh theo kỹ thuật tương phản màu với các cặp màu xanh lục (mộc) đặt cạnh màu đỏ (hỏa), vàng (thổ) đặt cạnh xanh lục (mộc)… những yếu tố đối lập màu sắc, tạo sự tươi sáng, rực rỡ.

Đề tài: Tranh Đông Hồ có 7 loại chính, gồm tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt. Nội dung của tranh dân gian Đông Hồ khá phong phú, nó phản ánh những sinh hoạt, quan hệ xã hội ở nơi thôn dã và luôn được thay đổi hay bổ sung. Thời phong kiến có tranh cóc, chuột, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh vật… Thời Pháp thuộc có cóc Tây múa kỳ lân, văn minh tiến bộ, phong tục cải lương, nhảy đầm… Đến thời kỳ kháng chiến có Việt Nam độc lập, sản xuất tự túc, bình dân học vụ, rồng lửa Thăng Long, bắt sống giặc lái máy bay, được mùa lúa xuân, lúa ngô khoai sắn, Bác Hồ về thăm làng…

Còn đó vẻ đẹp tranh dân gian Đông Hồ

Tranh Đông Hồ “Lợn đàn” – Tranh dân gian Việt Nam

Tranh Đông Hồ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như: Đám cưới chuột, Hứng dừa, Gia đình gà… thể hiện mong muốn no ấm và hạnh phúc. Một số bức tranh Đông Hồ nổi tiếng như: Đám cưới chuột, Vinh quy bái tổ, Vinh hoa phú quý, Đàn gà mẹ con, Tứ quý bình, tứ quý hạc, tứ quý vịt sen…

Ngày nay, nghề in tranh khắc gỗ ở Đông Hồ cũng như những địa phương khác không còn nhộn nhịp như xưa. Tuy vậy, nhiều gia đình ở đây vẫn còn giữ được hàng trăm ván gỗ, họ coi đó là của gia bảo truyền lại cho con cháu đời sau. Ngoài nghề làm tranh, hiện nay nhiều gia đình tại đây còn làm đồ mã bán quanh năm.

2. Tranh Kim Hoàng

Cùng với tranh Đông Hồ, tranh Kim Hoàng vốn là dòng tranh Tết nổi tiếng của Kinh Kỳ. Tranh Kim Hoàng ra đời từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, bắt nguồn từ làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức (Hà Nội). Các cụ ở làng kể lại rằng dòng tranh này do ông Nguyễn Sỹ ở Thanh Hóa ra Thăng Long lập nghiệp ở làng Kim Hoàng sáng tạo ra, với mong muốn có một dòng tranh mới, phù hợp với nông dân cả về thẩm mỹ và túi tiền. Thế rồi, dần dần, tranh Kim Hoàng được tổ chức thành một “phường tranh”, thu hút cả làng vào công việc này. Hàng năm, người Kim Hoàng làm tranh từ rằm tháng một (tháng 11 âm lịch) đến giáp Tết, thoạt đầu thì cúng tổ nghề. Các ván in do một chủ phường có tài năng vẽ và khắc. Sau ngày giỗ tổ mới phát cho các gia đình. Trong quá trình in họ trao đổi ván cho nhau. Hết mùa tranh họ lại giao ván cho các chủ phường khác cất giữ.

Tranh dân gian – Bài 3: Tranh Kim Hoàng – Để gió cuốn đi

“Tử tôn phú quý vinh hoa” – Tranh Kim Hoàng – Tranh dân gian Việt Nam

Đặc điểm: Điều khác biệt chỉ tranh Kim Hoàng có mà tranh Hàng Trống hay tranh Đông Hồ không có, đó là trên góc tranh Kim Hoàng có đề thơ và bùa trấn tà ma, nên thường được dùng trang hoàng nhà cửa đầu năm mới. Người làng Kim Hoàng dùng giấy đỏ, giấy hồng điều hoặc giấy vàng tàu làm chất liệu vẽ tranh và dùng các sắc hồng điều, đỏ cam, đỏ son, vàng yến… hết sức rực rỡ để làm nền, tạo nên một vẻ tươi thắm rất riêng. Cũng vì màu giấy đỏ ấy mà tranh Kim Hoàng còn được dân gian gọi là tranh Đỏ. Trong tranh Đông Hồ, một bức tranh có nhiều bản khắc gỗ, mỗi bản chỉ tương ứng với một màu và một lượt in. Nhưng ở tranh Kim Hoàng, các nghệ nhân chỉ sử dụng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi dựa vào đó mà tự do chấm phá màu sắc theo cảm xúc riêng của mỗi người. Vì thế, mỗi bức tranh có một sự phóng khoáng và diện mạo riêng, dù cùng được in ra từ một bản khắc.

Cách in ấn: Giấy in không quét điệp như tranh Đông Hồ, cũng không dùng giấy xuyến như tranh Hàng Trống mà in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng.

Màu sắc: Tranh Kim Hoàng không dùng màu phẩm, chất liệu phổ biến là mực tàu và các loại màu sắc có nguồn gốc tự nhiên, được trộn với chất kết dính là keo da trâu. Màu trắng tạo ra từ thạch cao, màu xanh chàm từ mực tàu hòa với nước chàm, màu đỏ lấy từ đất son, màu đen từ tro rơm rạ, màu xanh từ gỉ đồng, màu vàng từ nước ép của hạt cây dành dành…

Đề tài: Tranh của làng Kim Hoàng cũng phong phú nội dung: Thờ cúng, tranh chúc tụng như một số dòng tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Đề tài của tranh Kim Hoàng cũng tương tự như tranh Đông Hồ, đó là những gì quen thuộc với cuộc sống mộc mạc, đơn sơ của người nông dân, như: Trâu, bò, lợn, gà, đời sống làng quê, cảnh ngày Tết, ông Công, ông Táo. Ngoài ra, tranh Kim Hoàng có một đặc điểm riêng biệt mà các dòng tranh dân gian khác không có. Đó là những câu thơ Hán tự được viết theo lối chữ thảo trên góc trái bức tranh. Cả thơ và hình vẽ tạo nên một chỉnh thể hài hoà, chặt chẽ cho tranh.

Tranh Kim Hoàng - tranh Tết vang bóng một thời và hành trình đưa dòng tranh

“Thần kê” – Tranh Kim Hoàn – Tranh dân gian Việt Nam

Những ngày giáp Tết xưa, không khí làm tranh nhộn nhịp khắp làng. Ban ngày mọi người làm việc tất bật rồi tối đến lại chong đèn mà chấm phẩm, đến khoảng rằm tháng Chạp thì mang tranh đi các vùng bán. Thời hoàng kim của dòng tranh này ước tính kéo dài được khoảng 100 năm. Thế kỷ XIX, tranh Kim Hoàng phát triển mạnh nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915, khi làng mạc từ Phùng đến Cầu Giấy bị ngập trắng, nhiều ván in tranh của làng bị cuốn trôi. Đến năm 1945, thì hoàn toàn không sản xuất tranh nữa. Ngày nay chỉ còn 1 vài ván in của dòng tranh này được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

3. Tranh Hàng Trống

Không nằm ngoài quy luật phát triển, tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội phản ảnh đậm nét tư duy sáng tạo của cộng đồng, các tầng lớp xã hội Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII.

Tranh Hàng Trống là một loại hình tranh khắc gỗ của một số gia đình nghệ nhân sản xuất ở Hà Nội hoặc ở một địa phương làm tranh theo cùng một phong cách – chủ yếu là tranh thờ, mang ra Hà Nội bán tập trung ở phố Hàng Trống với các đồ thờ khác. Loại tranh này đã có từ lâu, còn tên “tranh Hàng Trống” chỉ là tên chung của một loại tranh có cùng một kĩ thuật, phong cách, mới đặt ra gần đây, để phân biệt với dòng tranh khắc gỗ sản xuất ở làng Đông Hồ – Bắc Ninh…

Tranh Hàng Trống chủ yếu vẽ để phục vụ nhu cầu người dân sinh sống ở đô thị, nên các nghệ nhân thường làm tranh khổ lớn, điều đó giúp tranh Hàng Trống phù hợp với không gian những phòng khách sang trọng. Tính độc bản tranh Hàng Trống rất cao, không phải dòng tranh in ra hàng loạt. Do vậy, người mua tranh Hàng Trống không chỉ để chơi, mà còn để sưu tầm, dòng tranh này càng để lâu năm, giá trị văn hóa, lịch sử càng cao.

“Lý ngư vọng nguyệt” – Tranh hàng trống – Tranh dân gian Việt Nam

Cách vẽ: Đặc trưng trong nghệ thuật chế tác của tranh Hàng Trống đó là các nghệ nhân trực tiếp vẽ bằng tay, truyền đạt cảm hứng sáng tạo trên tác phẩm kết hợp kỹ thuật dùng bản khắc in, hành nghề có tính phường thợ, cha truyền con nối. Tranh Hàng Trống vẽ rất kỳ công, đường nét vẽ tinh xảo, gợi cảm, xen những mảng trống tạo không gian.

Màu sắc: Màu sắc được vẽ bằng phẩm màu có hoà sắc phong phú, thường là lam – hồng, có thêm lục – đỏ, da cam – vàng. Tranh được tô màu bằng tay, vì vậy, vai trò của người vẽ rất quan trọng. Từ các bản khắc gốc, những bức tranh sẽ được in ra bằng mực Tàu mài. Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tuỳ thuộc từng tranh cụ thể mà tranh chỉ bồi một lớp, có tranh lại bồi 2 đến 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ màu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thiện một bức tranh.

Cách in ấn: Tranh được in trên giấy dó bồi dầy hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh khổ to và dài thường bồi dầy, hai đầu trên – dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp với kiến trúc kiểu nhà cao cửa rộng nơi thành thị. Ván khắc gỗ được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị.

Nội dung tranh: Phản ánh về các đề tài Phật giáo, Đạo giáo, tranh thờ như: Tam toà Thánh Mẫu, tranh Tứ phủ, ông Hoàng Ba, ông Hoàng Bảy, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang… các tranh chơi như các bộ Tứ Bình hoặc Nhị bình, Lý ngư vọng nguyệt, Thất đồng, Tố nữ, Kiều, bộ tranh về cảnh dạy học, cảnh nhà nông hay các kiểu khác: canh, tiều, ngư, mục.

Sinh hoạt xã hội trong tranh dân gian Hàng Trống – Hà Nội Đẹp

“Phi thương bất phú” – Tranh hàng trống – Tranh dân gian Việt Nam

4. Tranh làng Sình

Nghề làm tranh tại làng Sình (nằm ven bờ sông Hương, Huế) ra đời nhằm phục vụ cho việc thờ cúng của người dân khắp vùng.

Tranh làng Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng. Với khoảng hơn 50 đề tài tranh phản ảnh tín ngưỡng cổ sơ, người dân thờ tranh cầu mong người yên, vật thịnh… Bên cạnh ý nghĩa thờ cúng, tranh Sình còn khắc hoạ bằng hình ảnh sinh động những sinh hoạt văn hoá, xã hội, lao động. Nhóm tranh muông thú rất gần gũi với mọi nhà (lợn, ngựa, voi…), các đồ vật quen thuộc (chậu, hoa, thuyền bè…).

No photo description available.

“Cảm hứng làng Sình, Huế” – Tranh làng Sinh – Tranh dân gian Việt Nam

Tranh có nhiều cỡ khác nhau, ứng với nó là kiểu in vẽ cũng khác nhau. In tranh khổ lớn thì đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu, quét màu đen lên trên ván in. Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra. Với tranh nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên. Bản in đen chờ cho khô thì đem tô màu. Màu tô của tranh làng Sình tuy không được tỉa tót và vờn đậm nhạt như tranh Hàng Trống, nhưng mỗi màu đều có chỗ cố định trên tranh, tạo nên sự hòa sắc phù hợp với ý nghĩa từng tranh. Điểm nổi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ chất phác một cách hồn nhiên. Những nét độc đáo nhất của nó lại là ở chỗ tô màu. Khi đó nghệ nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên.

5. Tranh Thập vật

Tranh Thập vật là loại tranh phổ biến trong các chùa vùng Bắc bộ trước những năm 1960, thể hiện nét tâm linh một thời của người Việt: người đã mất sang thế giới bên kia vẫn được thân nhân lo chu toàn đời sống gồm đủ cả trang phục, vật dụng hàng ngày, thậm chí có cả con vật để cưỡi và lính hầu.

Tranh Thập vật là dòng tranh dân gian chỉ có nội dung thuộc về tâm linh, thường có khổ tranh nhỏ, rộng khoảng 1 – 2 bàn tay, dùng để đốt cho người đã khuất khi khấn cúng chứ không có dạng tranh treo để trang trí. Dòng tranh này có cách biểu đạt tối thiểu: tranh được khắc rồi in chỉ mỗi nét đen trên giấy dó hay giấy bản. Mỗi bức tranh đều có một câu chuyện riêng, thể hiện nhân sinh quan của người Việt xưa. Chính vì bị “ép” trong khuôn tối thiểu mà các tác giả phải vận dụng hết khả năng sáng tạo để đảm bảo nội dung cần thể hiện mà vẫn hấp dẫn.

Bức tranh Thập vật cổ từ nửa đầu thế kỷ XX, loại tranh in từ ván khắc gỗ

Theo các tư liệu Bảo tàng Mỹ thuật, tranh Thập vật rất thịnh vào giai đoạn từ thời Lê – Trịnh qua Nguyễn đến thời Pháp thuộc, suy thoái vào khoảng thập niên 60 của thế kỷ XX. Vào đầu thế kỷ XXI, đất nước bước vào thời kỳ hội nhập, đời sống văn hóa phát triển, những người làm công tác văn hóa, các họa sỹ, nhà nghiên cứu có điều kiện nhìn nhận, đánh thức dòng tranh dân gian này, giúp công chúng cảm nhận vẻ đẹp văn hóa, những thông điệp về đạo đức, luân lý và tín ngưỡng của các bậc tiền nhân.

6. Tranh dân gian đồ thế Việt Nam

Tranh đồ thế có lẽ là dòng tranh xuất hiện sớm nhất trong các dòng tranh dân gian, trải qua bao đời nay, nó vẫn có sức sống mạnh mẽ do gắn liền với nghi lễ, tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc. Nếu như tranh kính phổ biến ở Nam Bộ; tranh Hàng Trống, Đông Hồ phổ biến ở Bắc Bộ, thì tranh dân gian đồ thế hiện diện mọi nơi, ở các lễ nghi vòng đời của con người (trừ đám cưới), trong ngày rằm, mồng một… Gần như dân tộc nào cũng có tranh đồ thế, thể hiện dưới hình thức này hay hình thức khác mà thôi…”.

Tranh dân gian đồ thế, với từ “thế” có nghĩa là thay thế, khi con người muốn dâng cúng lễ vật lên thần linh hoặc người đã khuất, họ có thể cúng gà, lợn, đồ mã… Tranh đồ thế thể hiện những đồ vật thật bằng tranh, người ta dùng tranh đó để thay thế đồ vật thật. Tranh đồ thế gắn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt Nam. Đa phần người Kinh thường theo tam giáo, là biểu hiện rõ nhất tín ngưỡng của người Việt cũng như tôn giáo của người Việt.

Dòng tranh dân gian đồ thế chủ yếu là tranh in khắc từ mộc bản, số lượng và kiểu dáng khá phong phú. Có loại tranh chỉ toàn mảng, có loại tranh toàn nét, có loại kết hợp cả nét lẫn mảng. “Đừng tưởng tranh mảng in toàn màu đen là xấu. Những tranh đồ thế gia súc, gia cầm, thủy cầm như trâu, bò, ngựa, voi, gà, cá, lợn đôi khi có tạo mảng đầy gợi cảm. Điển hình là tranh đồ thế Lợn độc của Kim Hoàng, chỉ căn cứ vào mảng đen gốc thì đầy thiếu sót, nhưng khi in trên nền màu, đỏ, cam hay hồng điều và phối hợp vẽ thêm nét đen trắng thì tranh sẽ sinh động và đẹp hồn hậu đến bất ngờ”

7. Tranh Kiếng Nam Bộ

Trong số các dòng tranh tiêu biểu, tranh Kiếng Nam Bộ là sản phẩm thủ công in đậm tính mỹ thuật, thẩm

thấu đời sống, văn hóa người dân Nam Bộ. Tranh Kiếng Nam Bộ đã xuất hiện trong cung đình Huế từ thời Nguyễn (triều Minh Mạng, Thiệu Trị). Những năm 1920 nghề làm tranh Kiếng từng rất được ưu chuộng tại khu vực miền Trung, sau đó cùng với các ngành nghề thủ công mỹ nghệ khác, tranh Kiếng đã có những bước phát triển vượt bậc.

Khoảng năm 1940-1950 dòng tranh này có mặt tại khắp lục tỉnh Nam kỳ và nhiều vùng miền cả nước. Trong hơn một thế kỷ phát triển loại hình nghệ thuật này đã hình thành nhiều dòng tranh nổi tiếng với phong cách và đặc điểm riêng biệt, tiêu biểu là các dòng tranh Kiếng Khơ Me – Nam bộ (tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng), dòng tranh Lái Thiêu (Thủ Dầu Một – Bình Dương), dòng tranh Chợ Lớn (Sài Gòn).

Tranh Kiếng Nam Bộ trở thành một sản phẩm không thể thiếu trong không gian sống của người dân Nam bộ, việc treo tranh Kiếng trong nhà đã hình thành nét văn hóa tao nhã của người dân nơi đây. Tranh Kiếng có nhiều chủng loại đa dạng: Tranh thờ tổ tiên, tranh Thần, Phật, tranh chúc tụng, tranh cảnh vật trang trí nội thất…. Ở đó có loại vẽ thuần bằng sơn màu đa sắc (thêm ngân nhũ và kim nhũ) hoặc kết hợp với kỹ thuật tráng thủy, độc đáo nhất là tranh Kiếng gắn ốc xà cừ. Tranh Kiếng đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và mỹ thuật của công chúng khắp các thôn xã từ miền Đông Nam bộ đến miền Tây Nam bộ và trở thành loại hình nghệ thuật dân gian phát triển cùng một giai đoạn lịch sử của đất nước.

8. Tranh Kính Huế (hoặc Tranh gương Huế)

Có thể xem tranh gương cung đình Huế là một loại hình tranh mang bản sắc riêng của Huế. Chất liệu để làm nên những bức tranh này được sử dụng là bột màu pha keo, hoặc sơn, được vẽ hoặc khảm xà cừ vào mặt sau của gương (vẽ màu hoặc khảm trực tiếp theo lối “phản họa” lên mặt gương – tức vẽ kiểu âm bản ở mặt sau để nhìn mặt trước thành dương bản)

Tranh kính Huế khác biệt so với tranh kính Nam Bộ ở chỗ được làm ra để phục vụ cho tầng lớp vua chúa quan lại của cung đình xưa kia hoặc được trưng bày ở những nơi cao sang, cho nên bản thân tranh kính Huế đã tự mang cho mình dáng vẻ đầy sang trọng, quyền quý, không dân dã, đời thường như tranh kính Nam Bộ.

Tranh kính “Cô chín Thượng ngàn” – Tranh dân gian Việt Nam

Chủ đề của tranh gương cung đình Huế về cơ bản có 3 loại chính.

  • Loại tranh Thi họa: hay còn gọi là tranh thơ ngự chế chủ yếu mô tả và ca ngợi 20 cảnh đẹp được vua Thiệu Trị xếp hạng, tranh minh họa các bài thơ đề vịnh các mùa trong năm, vịnh các cảnh mà vua bất chợt tức cảnh đề thi…
  • Loại tranh thứ hai không đề thơ nhưng có đề rõ chủ đề là loại tranh minh họa cho các điển tích trong lịch sử Trung Hoa.
  • Loại tranh thứ ba là tranh vẽ tĩnh vật. Với người thưởng lãm hay du khách, những bức tranh này có thể chỉ đơn thuần là cảnh đẹp của thiên nhiên, của non nước hữu tình, nhưng với những nhà nghiên cứu, bên cạnh giá trị nghệ thuật, mỗi bức tranh gương chính là cứ liệu lịch sử quan trọng để phục dựng, trùng tu các di tích có liên quan.
Độc đáo tranh gương

Tranh Kính Huế thể hiện rõ đặc trưng mỹ thuật cung đình.

9. Tranh Thờ miền núi (Dân tộc thiểu số phía Bắc)

Tranh thờ của các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi phía Bắc hầu hết là tranh tôn giáo, gắn với tín ngưỡng đạo Phật hay đạo Lão. Tranh thờ mang rõ dấu ấn nghệ thuật của mỗi dân tộc, hình thành từ cội nguồn văn hóa và phong tục tập quán riêng. Mỗi dân tộc lại có một dòng tranh thờ mang đặc thù khác nhau từ nét vẽ, màu sắc cho đến số lượng tranh trong mỗi bộ.

Ở khu vực miền núi phía Bắc, các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Dìu… đều có tập tục sử dụng tranh thờ trong các việc cúng lễ, ma chay. Đặc biệt, Tày và Dao là hai dân tộc đang sở hữu một số lượng lớn các loại tranh thờ. Người dân tộc miền núi có tục lệ dùng tranh thờ như là cách để trông coi linh hồn người chết và khuyên giải con người nên sống như thế nào để khi chết sớm được siêu thoát. Tranh thờ miền núi có mặt trong các lễ tang, biểu thị ước nguyện dân gian của gia đình người chết cầu cho vong hồn thân nhân thoát cảnh địa ngục, vươn tới cõi Niết bàn hay cõi Bất tử.

Hình ảnh con Hổ trong tranh thờ của người Dao Tây Bắc

Tranh thờ của người Dao với các nhân vật thần linh huyền bí.

Tranh thờ mang sắc thái và giá trị thẩm mỹ rất riêng. Về cơ bản loại tranh này vẽ bằng bột màu trên giấy và có lối bố cục lạ: hẹp, dài và dày đặc các nhân vật thần linh. Tùy nơi xuất xứ, cùng một đề tài có thể có các bố cục khác nhau, tạo ra nhiều dị bản. Màu sắc tranh thờ thường là màu bột và một số màu lấy từ tự nhiên (đá sỏi son, lá chàm, hoa hòe, than lá tre, bột vỏ sò vỏ điệp…), có nơi còn dùng cả vàng lá, bạc lá thếp thêm vào tranh tạo nên sự tươi tắn, linh thiêng. Những màu ấy trong tranh mang tính ước lệ, biểu trưng nhiều hơn là tả thực.

Phong cách nghệ thuật đồng hiện và liên hoàn là điều đáng chú ý nhất trong tranh thờ. Nghĩa là trong cùng một khuôn tranh, người ta bắt gặp đủ các lớp không gian, thời gian, thực và ảo khác nhau. Điều đó tạo ra không gian trong tranh mênh mang, thời gian trong tranh vô tận chứ không ghim chặt vào một khoảnh khắc điển hình. Xét về mặt nào đó, đây là một sự giải phóng về mặt tư tưởng, là một thành công trong tư duy sáng tác nghệ thuật của các nghệ nhân vẽ tranh thờ.

Đặng Nguyên Sư, Quan Nguyên Sư (tranh bên trái), Triệu Nguyên Sư, Mã Nguyên Sư (tranh bên phải), tranh thờ dân tộc thiểu số. Ảnh: Sách tranh thờ các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, 2006.

Đặng Nguyên Sư, Quan Nguyên Sư (tranh bên trái), Triệu Nguyên Sư, Mã Nguyên Sư (tranh bên phải), tranh thờ dân tộc thiểu số.

10. Tranh Gói vải

Tranh gói vải là loại tranh tạo hình nổi bằng chất liệu vải trên nền giấy bìa cứng, được ông Trần Văn Huy (hiệu là Thủy Tiên) sáng lập và khởi nghiệp từ Sa Đéc xưa. Tuy chỉ có trên 70 năm tuổi, không lâu đời như các loại tranh dân gian khác, tranh gói vải vẫn khẳng định được chỗ đứng của mình trong đời sống dân gian Nam bộ.

Thuở ban đầu của tranh gói vải chỉ là sáng kiến của ông Thủy Tiên khi thay hình dán giấy bằng vải hoặc lụa trên những tấm trướng phúng viếng đám tang. Dần dà, ông Thủy Tiên nâng cấp thành một dòng tranh để phục vụ bà con chủ yếu trong thờ cúng. Càng về sau, tranh gói vải lại càng phát triển khi có tranh phong cảnh, tranh thế sự, chúc tụng… để phục vụ nhu cầu làm quà hiếu hỉ của bà con. Sự hấp dẫn kỳ thú của dòng tranh này nhanh chóng lan tỏa khi ông Thủy Tiên được Bộ Kinh tế thời đó cấp bằng sáng chế.

Với tranh gói vải, người chế tác sẽ phác họa chân dung người, cây cỏ bằng nét vẽ rồi dùng bông gòn tạo hình trên giấy bìa cứng, sau đó dùng vải phủ lên và tạo nếp. Do kết hợp hài hòa giữa đường vải, bột màu, bố cục vẽ nên tranh gói vải tả thật, sống động. Các cụ hồi xưa thích hình thờ làm bằng tranh gói vải vì nhìn có thần, lại sang trọng, đẹp mắt.

Dòng tranh này hưng thịnh ở miền Tây Nam bộ từ thập niên 50 – 60 của thế kỷ XX, thế nhưng truyền nhân rất ít. Bởi ngoài đam mê, tỉ mẩn, thì sự sáng tạo của người thợ mới giữ vai trò then chốt. Vì khó sống được với nghề làm tranh gói vải nên rất nhiều người theo học nhưng hiếm ai trụ lại với nghề. Hiện nay chỉ còn nghệ nhân cuối cùng làm tranh gói vải là ông Hồ Văn Tai (84 tuổi, ngụ xã Tân Phú Trung, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp).

11. Tranh Thờ đồng bằng

Dòng tranh này bao gồm nhiều loại: tranh thờ cúng các vị thần linh bảo trợ cho gia tộc, tranh thờ vẽ về các nhân vật huyền thoại và các nhân vật lịch sử, tranh thờ đạo Giáo, tranh thờ đạo Mẫu…

Tiền thân của nó là các loại “tranh” bùa (như Hà Đô, Bát Quái, Tử vi, Thiên ất…) dùng để trấn trừ ma quái, các bức tranh của Phật giáo và Đạo giáo bị “dân gian hóa” như Thập điện, Tam thanh…, được thể hiện theo phong cách dân gian.

12. Tranh vải

Twinkl vẫn đang cập nhật nội dung mới nhất về dòng tranh vải trong các loại tranh dân gian Việt Nam. Hãy theo dõi và đón đọc tiếp nha!

Giá trị nghệ thuật và triết lý trong tranh dân gian Việt Nam

Hình thành, phát triển cùng chiều dài lịch sử nền văn hóa Việt Nam, mỗi dòng tranh dân gian nước ta đều phản ánh chân thực tâm hồn, cuộc sống người dân, tư tưởng triết học trong tranh dân gian là mạch nguồn văn hóa dân tộc định hình tư duy sáng tạo của những nghệ nhân dân gian trong suốt quá trình lao động, sáng tạo.

Trong giao lưu văn hoá, tranh dân gian Việt Nam vừa phát triển những vốn quý của các thời trước tích tụ lại, vừa tiếp nhận những tinh hoa của các dòng tranh khác để rồi khẳng định những gì thích hợp với dân tộc, làm phong phú hơn bản sắc của mình.

Với sự hội tụ cùng lúc 12 dòng tranh dân gian Việt Nam tiêu biểu của cả 3 miền Bắc – Trung – Nam cũng như tranh thờ miền núi, triển lãm cho thấy sự đa dạng, phong phú của các dòng tranh dân gian. Qua đó, mỗi người sẽ có dịp tìm hiểu thêm về sự giao thoa, tiếp biến cũng như nét riêng biệt của từng dòng tranh dân gian Việt Nam.

Nguồn twinkl

One thought on “Tranh Dân Gian Việt Nam

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *