Văn hóa Quỳnh Văn

Từ năm 180.000 tCN, đã có con người sinh sống trên đất Nghệ An. Họ sống trong hang Thẩm Òm, bên suối Bản Thắm thuộc Huyện Quỳ Hợp. Trong buổi đầu, con người sinh sống chủ yếu ở vùng núi, vùng thung lũng chân núi. Nhưng đến khoảng năm 4000–3000 tCN, trên đất Nghệ An con người mở rộng địa bàn sinh sống xuống tận ven biển. Đó là những chủ nhân đã sáng tạo nên một nền văn hóa thời đồ đá, mới chỉ tìm thấy trên đất Nghệ An (và cả Việt Nam) tại Quỳnh Văn, được gọi là Văn hóa Quỳnh Văn.

Văn hóa Quỳnh Văn được phát hiện đầu tiên là ở cồn vỏ điệp thuộc Xã Quỳnh Văn. Người ta gọi nó là văn hóa vỏ điệp hay văn hóa vỏ sò. Cồn vỏ điệp nằm cạnh quốc lộ 1A, dưới chân Lạp Sơn thuộc dãy Núi Thất Tinh (Lam Cầu).

Trong giai đoạn 1930–1932, nhà khảo cổ học người Pháp M.Colani là người đầu tiên khai quật một số địa điểm cồn sò điệp ở khu vực Cầu Giát, Huyện Quỳnh Lưu. Bà phát hiện và mở đầu công cuộc nghiên cứu về văn hóa Quỳnh Văn.

Đến đầu năm 1963, nhà khảo cổ học Phan Ngọc Liễn phát hiện được một số di vật đá và xương ở Xã Quỳnh Văn. Nhờ phát hiện này, Viện Khảo cổ học phúc tra, thám sát và khai quật di chỉ khảo cổ học Quỳnh Văn. Các nhà khảo cổ phát hiện một số lượng lớn các di vật bằng đá, xương, vỏ nhuyễn thể và một số mảnh gốm, đặc biệt còn tìm thấy 30 ngôi mộ trong hố khai quật. (quynhvan.quynhluu.nghean.gov.vn)

Ngoài điệp và sò (có gai hay nhẵn), những thức ăn quan trọng khác của người Quỳnh Văn còn có một số động vật thân mềm khác như ốc đinh, ốc sắt, ốc gai, ngao, hàu… Điều quan trọng là các nhà khảo cổ học tìm thấy nhiều công cụ đá. Ngoài một số hòn ghè và chày nghiền làm bằng đá cuội, hầu hết công cụ của chủ nhân Văn hóa Quỳnh Văn đều làm bằng đá gốc, tức đá khối lấy từ núi hay từ mỏ đá – loại đá làm công cụ khá tốt. Trong Văn hóa Quỳnh Văn chưa có kỹ thuật mài đá; kỹ thuật duy nhất ở đây là ghè đẽo. Đó là điểm khác biệt với văn hóa Bắc Sơn. Nhìn vào công cụ đá của người Quỳnh Văn, ta thấy họ thường ghè đẽo nhiều vết trên một mặt, còn một mặt được ghè đẽo rất ít hoặc giữ nguyên mặt tách khá phẳng từ khối đá ra. Bằng cách đó, họ tạo nên những công cụ có một mặt phẳng, một mặt khum ra và rìa xung quanh là lưỡi. Người ta thường gọi công cụ như vậy là công cụ hình mai rùa. Gọi là hình mai rùa, nhưng thực ra chúng không chỉ có hình tròn hay hình bầu dục mà còn có hình trám hoặc hình chữ nhật. Có những công cụ rất dày, lưỡi có góc lớn và lệnh. Một số mảnh đá mỏng, được ghè đẽo khá tinh tế ở rìa cạnh, có thể làm dao cắt.

Ngoài những công cụ nói trên, còn tìm thấy những chiếc rìu đá gần hình chữ nhật, được ghè đẽo trên cả hai mặt. Những chiếc rìu này thường có dốc dày, mỏng dần về phía lưỡi, rìu lưỡi thẳng hay có hình cung. Đó là loại công cụ đẹp nhất trong công cụ Quỳnh Văn.

Các bộ tộc Quỳnh Văn chưa biết mài đồ đá nhưng đã biết mài đồ xương. Các nhà khảo cổ tìm thấy mũi dùi và những chiếc đục bằng xương. Đục thường được làm bằng một phần xương ống của động vật, có lưỡi mài sắc và đẹp.

Nếu kỹ thuật mài đá chưa thấy xuất hiện trong cư dân Văn hóa Quỳnh Văn như ở các bộ lạc Văn hóa Bắc Sơn thì ngược lại, kỹ thuật làm đồ gốm ở người Quỳnh Văn lại phát triển hơn. Đồ gốm ở Quỳnh Văn được tìm thấy khá nhiều, mặc dù còn thô sơ. Tất cả đều được nặn bằng tay. Đất sét làm gốm được trộn thêm nhiều sạn cát to. Trong các di chỉ Quỳnh Văn, thường gặp loại nồi đất có miệng đứng thẳng và đáy nhọn. Để làm những chiếc nồi độc đáo này, người nguyên thủy xoắn ốc từ dưới lên trên, bắt đầu từ cái núm nhọn ở đáy. Mặt ngoài của những chiếc nồi gốm đáy nhọn này, có hoa văn ở chân. Đặc biệt ở mặt trong của những chiếc nồi này cũng thấy những dấu in thành rãnh nhỏ song song. Các nhà khảo cổ thường gọi loại gốm này là loại gốm có hoa văn hai mặt, nhưng thực ra dấu in ở bên trong nồi là dấu vết của kỹ thuật chế tác chứ không phải là kỹ thuật hoa văn trang trí. Miệng của đồ gốm đáy nhọn thường có đường kính 30-35 cm. Nồi cao 20–40 cm. Có lẽ người Quỳnh Văn đặt những chiếc nồi có đáy nhọn lên trên mặt cát hoặc lên giá kê, đan bằng cành cây. Nồi có đáy nhọn là thứ đồ dùng thông dụng trong các bộ lạc Quỳnh Văn.

Cư dân trong các bộ lạc Văn hóa Quỳnh Văn sống chủ yếu dựa vào việc bắt điệp ở bờ biển và vùng nước lợ. Ngoài sò, điệp, ngao, hàu…, con người thời đó còn sống bằng nghề đánh cá. Trong các cồn điệp đã tìm thấy các đốt xương, vây của các loài cá biển khá lớn. Muốn đánh được các loại cá lớn như vậy, người nguyên thủy phải có thuyền ra biển.

Săn bắn cũng là một hoạt động kinh tế của người Quỳnh Văn. Trong nơi cư trú của họ, đã tìm thấy xương trâu, bò rừng, hươu, nai, hoãng, nhím… – là những thú rừng họ săn được. Ở cồn điệp Quỳnh Văn đã tìm thấy một đoạn ngà voi. Như vậy là người nguyên thủy đã săn được những loài thú lớn.

Trong thời kỳ các bộ lạc Quỳnh Văn sinh sống ở vùng ven biển xứ Nghệ, biển lấn vào đất liền nhiều hơn ngày nay, có chỗ chỉ ăn sâu hơn dăm ba kilômét, có chỗ đến hơn mười kilômét. Còn rừng thì lan rộng khắp nơi, có khi ra tận mép biển, xen kẽ với những đồng cỏ và đầm lầy. Vì vậy các bộ lạc Quỳnh Văn vừa đánh cá biển, lại vừa săn thú rừng. Nhưng dường như săn bắn không đóng vai trò lớn lắm trong đời sống của họ. Đồ trang sức của cư dân Quỳnh Văn là vỏ trai, vỏ trùng trục có xuyên lỗ để đeo.

Các huyệt mộ Quỳnh Văn đều chôn một người. Chỉ có một ngôi mộ tìm được hai xương hàm dưới. Như vậy mộ này có thể chôn đôi. Hình dạng mộ cũng như các vật chôn theo người chết không khác nhau mấy giữa các ngôi mộ. Điều này cho thấy lúc bấy giờ chưa có sự phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Qua khu mộ ta thấy các thành viên trong thị tộc bình đẳng với nhau.

Một số di tích Văn hóa Quỳnh Văn được định niên đại bằng phương pháp carbon phóng xạ, cho thấy khoảng năm 3000 tCN, con người đã sinh sống trên đất Quỳnh Văn và sáng tạo ra nền Văn hóa Quỳnh Văn rực rỡ. (quynhvan.quynhluu.nghean.gov.vn)

Nguồn sưu tầm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *